Lịch sử Đảng bộ xã Thái Bình Trung
LỊCH SỬ ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG VÀ XÂY DỰNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ THÁI BÌNH TRUNG
(1930-2005)
CHƯƠNG MỘT: ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN XÃ HỘI
I.Lịch sử địa danh và những thay đổi về địa giới hành chánh
Địa danh Thái Bình Trung chính thức xuất hiện trên bản đồ đất nước Việt Nam vào năm 1838 với tư cách là một thôn thuộc tổng Mộc Hóa, huyện Quang Hóa, phủ Tây Ninh, tỉnh Gia Định. Tính đến nay, địa danh Thái Bình Trung đã có bề dày lịch sử 175 năm. Ngót 2 thế kỷ tồn tại và phát triển của mình, Thái Bình Trung đã có nhiều sự thay đổi về địa danh và địa giới hành chính.
Theo sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì trước thế kỷ XVII, cả vùng đất Nam Bộ ngày nay đều là vùng rừng rậm hoang vu, thưa thớt dấu chân người. Từ đầu thế kỷ XVII, có những nhóm lưu dân người Việt từ miền Bắc, miền Trung vào Nam khai khẩn đất đai, lập thành làng xóm. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu mới cử Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, lập nên phủ Gia Định và các đơn vị hành chánh cơ sở, tùy theo điều kiện từng nơi mà gọi là thôn, phường hay lân, ấp. Bắt đầu từ thời điểm này, ở phía Nam mới xuất hiện những đơn vị hành chánh cơ sở đầu tiên. Vùng Đồng Tháp Mười ngày nay do điều kiện về vị trí và đất đai nên được khai phá muộn hơn so với những vùng đất khác.
Năm 1838, nhà Nguyễn thành lập tổng Mộc Hóa thuộc huyện Quang Hóa, phủ Tây Ninh, tỉnh Gia Định. Lúc bấy giờ, Thái Bình Trung 1 trong 6 thôn của tổng Mộc Hóa. Sau khi xâm chiếm 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ vào năm 1863, thực dân Pháp thành lập địa hạt Quang Hóa gồm 4 tổng 17 thôn, trong đó, thôn Thái Bình Trung vẫn thuộc địa phận của tổng Mộc Hóa. Năm 1871, tổng Mộc Hóa được cắt khỏi địa hạt Quang Hóa nhập về hạt Tân An. Từ đó đến cuối năm 1916, Thái Bình Trung thuộc tổng Mộc Hóa, hạt Tân An và sau này là tỉnh Tân An (1900). Năm 1916, chính quyền thuộc địa nâng tổng Mộc Hóa lên thành quận trực thuộc tỉnh Tân An, bao gồm 2 tổng là: Thạnh Hòa Thượng và Thạnh Hòa Hạ. Lúc bấy giờ, thôn Thái Bình Trung thuộc địa phận tổng Thạnh Hòa thượngï, quận Mộc Hóa. Năm 1923, chính quyền thuộc địa tách một phần của Bình Thành Thôn nhập với thôn Thái Bình Trung để thành lập nên một làng mới, nhưng vẫn lấy tên là Thái Bình Trung. Làng mới này có 2 ấp là Bình Định và Kèo Giá. Từ năm 1923 đến 1945, Thái Bình Trung là 1 trong 9 làng thuộc tổng Thạnh Hòa Thượngï, quận Mộc Hóa, tỉnh Tân An.
Trong thời kỳ chín năm kháng chiến chống Pháp, cách mạng hầu như làm chủ vùng Đồng Tháp Mười. Ranh giới các làng, trong đó có làng Thái Bình Trung (từ 1948 gọi là xã) vẫn được chính quyền cách mạng giữ nguyên cho đến 1954.
Từ sau khi Hiệp định Geneve được ký kết (20-7-1954) đến đầu năm 1956, xã Thái Bình Trung vẫn thuộc tổng Thạnh Hòa Thượng, quận Mộc Hóa, tỉnh Tân An. Đến ngày 17-2-1956, ngụy quyền nâng Mộc Hóa thành tỉnh. Ngày 22-10-1956, tỉnh Mộc Hóa được đổi tên thành tỉnh Kiến Tường. Theo Nghị định số 136-BNV/HC/NĐ của ngụy quyền Sài Gòn, tỉnh Kiến Tường được phân chia thành 3 quận là: Châu Thành, Tuyên Bình và Aáp Bắc. Trong đó, xã Thái Bình Trung thuộc tổng Thạnh Hòa Thượng, quận Tuyên Bình, tỉnh Kiến Tường. Quận lỵ Tuyên Bình được đặt tại làng Tuyên Bình. Ngày 7-6-1958, ngụy quyền Sài Gòn tiếp tục ra nghị định số 290/BNV/HC/P6, điều chỉnh địa giới hành chánh của tỉnh Kiến Tường. Theo nghị định này, tỉnh Kiến Tường gồm có 3 quận là Châu Thành, Tuyên Bình và Kiến Bình, trong đó, xã Thái Bình Trung thuộc địa phận tổng Tuyên Bình Trung, quận Tuyên Bình. Theo sách Địa phương chí tỉnh Kiến Tường, vào năm 1962, xã Thái Bình Trung có diện tích 4327 ha. Ngày 4-7-1963, ngụy quyền Sài Gòn ra nghị định 532/NV, đặt quận lỵ Tuyên Bình tại xã Thái Bình Trung. Theo số liệu của Nha Địa dư, ngụy quyền Sài Gòn, vào năm 1971, xã Thái Bình Trung có diện tích 22,5km2, dân số 3303 người, là xã có diện tích nhỏ nhất, nhưng có dân số đông nhất quận Tuyên Bình. Tên gọi và cách phân chia địa giới này được giữ nguyên đến năm 1975.
Về phía chính quyền cách mạng, từ năm 1957, xã Thái Bình Trung thuộc vùng 8, tỉnh Kiến Tường.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Thái Bình Trung là 1 trong 10 xã thuộc huyện Tuyên Nhơn, tỉnh Kiến Tường. Tháng 3-1976, tỉnh Kiến Tường được giải thể và trở thành huyện Mộc Hóa, thuộc tỉnh Tân An. Từ tháng 3-1976 đến tháng 6-1978, Thái Bình Trung là 1 trong 29 xã trực thuộc huyện Mộc Hóa. Ngày 30/3/1978, phần đất phía tây bắc huyện Mộc Hóa được tách ra để thành lập một huyện mới, lấy tên là huyện Vĩnh Hưng. Lúc bấy giờ, xã Thái Bình Trung thuộc địa phận huyện Vĩnh Hưng. Từ đó, địa giới xã Thái Bình Trung cơ bản được giữ nguyên cho đến ngày nay.
2.Điều kiện tự nhiên và xã hội
Hiện tại, Thái Bình Trung là một trong số 10 xã, thị trấn của huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An, cách thị xã Tân An khoảng 90km về phía tây bắc. Sau nhiều đợt điều chỉnh về địa giới, Thái Bình Trung có diện tích tự nhiên là 3515ha, phía bắc và phía đông giáp biên giới với nước bạn Cam-pu-chia, phía nam giáp thị trấn Vĩnh Hưng và xã Vĩnh Bình, phía tây giáp xã Thái Trị. Xã được chia làm 6 ấp là: Trung Liêm, Trung Trực, Trung Thành, Trung Chánh, Trung Môn và Láng Đao. Tính đến cuối năm 2023 xã có diện tích 36,009km², dân số đến cuối năm 2023 là 5.418 người, mật độ dân số đạt 150người/km². So với bình diện chung của tỉnh Long An, Thái Bình Trung là xã đất rộng người thưa, mật độ dân số là 105 người/km2. Đại đa số cư dân Thái Bình Trung là người Kinh, khoảng 1/3 theo Thiên chúa giáo, còn lại theo Cao Đài và Phật giáo. Ngoài nghề chính là làm ruộng, nhân dân trong xã còn làm thêm một số nghề phụ như đánh bắt thủy sản, chăn nuôi gia súc….
Thái Bình Trung là xã biên giới, thuộc vùng Đồng Tháp Mười, là nơi chuyển tiếp giữa bậc thềm phù sa cổ và vùng thượng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long. Vì thế, so với cả vùng Đồng Tháp Mười, Thái Bình Trung có địa thế khá cao ráo. Đất đai Thái Bình Trung chủ yếu là đất xám phù sa cổ, khá màu mỡ, thuận lợi cho việc trồng lúa và các cây công nghiệp ngắn ngày.
Địa hình xã Thái Bình Trung bị chia cắt bởi hệ thống kinh rạch chằng chịt như: sông Vàm Cỏ Tây, sông Long Khốt, rạch Láng Đao, rạch Tà Me, rạch Săm No, kinh Măng Đa….Do địa hình bị chia cắt bởi hệ thống kinh rạch nên trước đây nhân dân Thái Bình Trung chủ yếu sử dụng đường thủy làm đường giao thông chính. Trong đó, sông Long Khốt đi ngang qua trung tâm hành chính của xã và thông thương với nhiều nơi. Ngoài lợi thế về giao thông, hệ thống sông rạch này là những công trình thủy lợi tự nhiên có khả năng tưới tiêu cho toàn bộ cánh đồng trong xã. Về đường bộ, Thái Bình Trung có đường chính dài 7km nối liền tỉnh lộ 831 với trung tâm xã và cửa khẩu Long Khốt.
Do vị trí đặc biệt của mình, xã Thái Bình Trung có điều kiện thuận lợi về giao thương với nước bạn Cam-pu-chia qua cửa khẩu Long Khốt. Trải dài trên vùng biên giới Việt Nam-Campuchia suốt 27km, xã Thái Bình Trung có vị trí chiến lược quan trọng. Đây là giao điểm của các xã biên giới, là cửa ngõ quan trọng về kinh tế và quân sự của huyện Vĩnh Hưng nói riêng và vùng Đồng Tháp Mười nói chung. Vào đầu thế kỷ XX, khi Đồng Tháp Mười là nơi dồi dào thủy sản thì cá ở khu vực này được thương lái thu gom về chợ Thái Bình Trung rồi chuyển lên Rồ Súc (Cam-pu-chia) để tiếp tục đưa đi nơi khác tiêu thụ. Về quân sự, so với bình diện chung trũng thấp và sông nước của Đồng Tháp Mười, Thái Bình Trung là một cao điểm quan trọng để đặt căn cứ bảo vệ biên giới hoặc dùng làm bàn đạp triển khai tấn công những nơi khác dễ dàng. Chính vì thế, từ năm 1963-1975, địch đã đặt quận lỵ Tuyên Bình tại Thái Bình Trung. Lực lượng đồn trú nơi đây rất mạnh gồm nhiều sắc lính như: biệt kích, bình định nông thôn, cảnh sát dã chiến, cảnh sát áo trắng, nghĩa quân, địa phương quân. Bên cạnh đó, với vai trò là một điểm chốt quan trọng nơi tuyến đầu biên giới, nên khi có chiến tranh, Thái Bình Trung là một trong những địa phương bị uy hiếp đầu tiên.
Với điều kiện tự nhiên-xã hội như thế, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Thái Bình Trung là địa điểm diễn ra nhiều trận đánh ác liệt, nhân dân Thái Bình Trung phải gánh chịu nhiều mất mát hy sinh nhưng vẫn kiên trung bất khuất, một lòng một dạ theo Đảng, theo cách mạng cho đến ngày giành thắng lợi hoàn toàn.
CHƯƠNG HAI
THÁI BÌNH TRUNG TRONG PHONG TRÀO KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
I. Giai đoạn 1930-1945:
1. Tổ chức Đảng Cộng sản ra đời và lãnh đạo phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc của nhân dânThái Bình Trung:
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định rồi chiếm hết sáu tỉnh Nam Kỳ. Cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống xâm lược của nhân dân Nam Kỳ lần lượt bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Từ đó, người Pháp rảnh tay củng cố bộ máy cai trị, xây dựng chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất để biến Nam Kỳ thành một khu vực sản xuất nông sản-lương thực hàng hóa lớn nhằm thu vét tài nguyên nơi đây đem về làm giàu cho chính quốc. Thực hiện âm đó, thực dân Pháp đã tiến hành khẩn hoang trên diện rộng bằng cách sử dụng phương tiện cơ giới. Tại tổng Mộc Hóa (vùng Đồng Tháp Mười thuộc Long An ngày nay), vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã đào nhiều con kinh lớn để tháo chua, rửa phèn, dẫn nước ngọt nhằm thực hiện chương trình khai thác vùng đất tuy còn hoang vu nhưng giàu tiềm năng về nông nghiệp này. Mỗi con kinh lớn được khai đào đã mở ra cơ hội khẩn hoang hàng ngàn ha đất và hình thành những đường giao thông- tuyến cư trú quan trọng. Tuy nhiên, việc khai kinh, mở đất này chủ yếu đem lại lợi cho bọn điền chủ thực dân người châu Âu và bọn Việt gian thân Pháp còn nông dân vì không rành luật lệ, giấy tờ nên đã nhanh chóng bị cướp đoạt ruộng đất và trở thành thân phận tá điền. Tại Thái Bình Trung, đại đa số ruộng đất tập trung vào tay những địa chủ lớn như: ông Tiêu Ô, ông Cai Thiệt…. Quá trình khai khẩn đất đai ở Đồng Tháp Mười nói chung và Thái Bình Trung nói riêng đã thấm máu và nước mắt của nông dân. Với thân phận tá điền, họ phải đổ mồ hôi, nước mắt, lao động quần quật suốt năm. Sau khi nộp tô, năm nào trúng mùa thì mới còn đủ lúa ăn cho đến mùa sau, còn những năm nào thời tiết không thuận, bị sâu rầy phá hại, mùa màng thất bát, hoặc những lúc ốm đau, ma chay, cưới hỏi, thì tá điền trắng tay và lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, có khi từ đời cha đến đời con vẫn chưa trả xong. Bởi thế, trước Cách mạng Tháng Tám đại đa số nông dân ở Thái Bình Trung phải sống trong cảnh nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần. Cảnh đời tối tăm, bế tắc này kéo dài cho đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930).
Lúc bấy giờ, nhiều tổ chức cơ sở Đảng đã lần lượt xuất hiện tại tỉnh Chợ Lớn và tỉnh Tân An. Tuy nhiên, do ở vùng biên giới xa xôi nên chủ nghĩa Cộng sản chưa được truyền bá đến Thái Bình Trung ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Mãi đến khoảng năm 1938, mới có những người Cộng sản đầu tiên từ tỉnh Mỹ Tho và Sa Đéc đến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin ở Thái Bình Trung. Đó là đồng chí Giáo Ngài-Phó Bí thư tỉnh ủy Sa Đéc và đồng chí Phương Tiến-Thường vụ tỉnh ủy Mỹ Tho. Từ khi tiếp xúc với chủ nghĩa Cộng sản, nhân dân Thái Bình Trung đã ý thức được rằng, để được no cơm, ấm áo, được đối xử công bằng, bình đẳng thì phải đứng lên đấu tranh đánh đổ thực dân-phong kiến, làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Từ những năm 1938, 1939, 1940 nhân dân Thái Bình Trung đã nhiều lần đoàn kết lại đấu tranh với bọn địa chủ cùng bọn tề làng đòi giảm tô; giảm thuế thân; bỏ thuế đìa bàu, kinh rạch để cho dân tự do đánh bắt...Nổi bật nhất là cuộc đấu tranh chống bắt lính và đòi giảm thuế thân năm 1944. Lúc bấy giờ, lấy cớ ngân sách thâm hụt trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, thực dân Pháp đã nâng thuế thân lên 4-5 đồng/người và thuế ruộng lên 1 cắc/mẫu, trong khi nhân dân đang lâm vào cảnh bần cùng. Dưới sự lãnh đạo của các đồng chí đảng viên Cộng sản, nhân dân Thái Bình Trung đã phản đối bằng cách bảo nhau không đóng thuế hoặc khai báo ít đi để giảm bớt số thuế bất công phải đóng cho Pháp. Nhìn chung, những cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ này tuy chưa đạt kết quả cao, nhưng đã khơi dậy tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân Thái Bình Trung.
Từ sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940), thực dân Pháp và tay sai đã tăng cường đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng của nhân dân ta. Ở Thái Bình Trung, địch tăng cường hệ thống đồn bót và binh lính để kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của nhân dân. Từ những năm 1941-1942, Nhật Bản nhảy vào xâm chiếm Đông Dương. Thực dân Pháp đã bắt tay thỏa hiệp với Nhật, đẩy nhân dân ta vào tình cảnh “một cổ hai tròng”. Dưới sự bóc lột tàn tệ của thực dân Pháp và phát xít Nhật, người dân Đồng Tháp Mười nói chung và Thái Bình Trung nói riêng bị dồn đến bước đường cùng, phải sống lây lất qua ngày trong cảnh thiếu thốn đủ mọi thứ. Có người phải dùng bàng để làm quần áo. Sống trong hoàn cảnh thiếu thốn và điều kiện kém vệ sinh nên bệnh dịch xảy ra liên miên. Trong tình thế bế tắc ấy, cần có một cuộc cách mạng để giải phóng họ thoát khỏi khỏi gông xiềng nô lệ và cuộc sống không có lối ra đó.
2.Khởi nghĩa cướp chính quyền trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945.
Trong những năm 1942-1945, tuy bề ngoài hòa hoãn, nhưng bên trong thực dân Pháp và phát xít Nhật vẫn ngấm ngầm mâu thuẫn, muốn hất cẳng nhau để độc chiếm Đông Dương. Mâu thuẫn ấy đã phát triển đến đỉnh điểm bằng sự kiện phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp vào ngày 9-3-1945. Sau khi đảo chính Pháp, Nhật bày trò trao trả độc lập cho triều đình Huế, dựng lên chính phủ bù nhìn do Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Ngay trong đêm 9-3-1945, Thường vụ Trung ương Đảng đã họp và ra bản chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trong bản chỉ thị này, Trung ương Đảng đã nhận định rằng: từ lúc này, phát xít Nhật là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương và quyết định phát động cao trào toàn quốc kháng Nhật cứu nước, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ thuận lợi.
Để lừa mị nhân dân, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, phát xít Nhật đã nuôi dưỡng các đảng phái, giáo phái phản động, lôi kéo lực lượng thanh niên làm hậu thuẫn. Thực hiện âm mưu này, vào giữa năm 1945, tên I Đa-Tổng ủy viên thể thao của Nhật ở Đông Dương- đã gợi ý cho bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng ra thành lập tổ chức Thanh niên Tiền phong. Nhân cơ hội ấy, Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương lợi dụng vỏ bọc hợp pháp của tổ chức Thanh niên Tiền phong để tập hợp thanh niên, tiến tới xây dựng lực lượng vũ trang, đợi thời cơ nổi dậy giành chính quyền. Ngày 15-5-1945, tổ chức Thanh niên Tiền Phong được thành lập tại Nam Kỳ và ra mắt đồng bào vào ngày 1-6. Ngay sau đó, tổ chức Thanh niên Tiền phong đã được phát triển đến tận cơ sở.
Vào khoảng tháng 6-1945, Huyện ủy Mộc Hóa đã cử đồng chí Châu Tử Tư và Nguyễn Hữu Ngoan về Thái Bình Trung tuyên truyền, vận động nhân dân, xây dựng, củng cố phong trào cách mạng. Các đồng chí này đã thông báo tình hình thế giới, trong nước và địa phương, tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản và kêu gọi đồng bào đoàn kết một lòng đứng lên khởi nghĩa giành độc lập dân tộc, giành ruộng đất, áo cơm cho dân nghèo. Bên cạnh đó, các đồng chí trên cũng đã lãnh đạo việc thành lập tổ chức Thanh niên Tiền phong ở Thái Bình Trung. Tháng 7-1945, lực lượng Thanh niên Tiền Phong xã Thái Bình Trung được thành lập, thu hút đông đảo thanh niên trong xã tham gia. Lực lượng này được trang bị tầm vông vạt nhọn, dao găm, dây thừng, cung tên…, tích cực luyện tập võ nghệ dưới sự hướng dẫn của tiểu tướng La Thành. Mặc dù chỉ có vũ khí thô sơ nhưng tinh thần yêu nước và quyết tâm khởi nghĩa của nhân dân Thái Bình Trung rất cao. Nhiều gia đình đã hăng hái đóng góp tiền bạc, lương thực cho lực lượng Thanh niên Tiền phong hoạt động. Để chuẩn bị khởi nghĩa, những người lãnh đạo phong trào đã được tuyển chọn số thanh niên trai tráng khỏe mạnh, giỏi võ nghệ để thành lập lực lượng chiến đấu, những người còn lại thì được tổ chức thành đội ngũ để canh gác bảo vệ xóm làng. Bọn tề làng tay sai lúc này vẫn còn nhưng đã rệu rã, một số ngã theo cách mạng, một số trở về sống với gia đình.
Từ giữa tháng 8-1945, không khí khởi nghĩa đã sôi sục ở khắp các làng của quận Mộc Hóa, trong đó có Thái Bình Trung. Ngày 19-8-1945, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã nổ ra và đạt được thắng lợi đầu tiên tại Hà Nội. Đến ngày 21-8-1945, cách mạng giành được chính quyền tại tỉnh lỵ Tân An. Sáng sớm ngày 22, sau khi cuộc khởi nghĩa ở Thủ Thừa và Châu Thành đã giành được thắng lợi, tỉnh ủy Tân An đã cử đđồng chí Hà Tây Giang và Mười Nhu chỉ huy lực lượng lên chi viện cho quận Mộc Hóa. Lực lượng tađđi tàu theo sông Vàm Cỏ Tây đến Mộc Hóa vào 11 giờ trưa rồi tràn vào dinh quận lấy súng, bắt gọn tên Quận Hoài và một số lính.
Sau khi lực lượng cách mạng chiếm được quận lỵ Mộc Hóa, lực lượng Thanh niên Tiền Phong làng Thái Bình Trung do các đồng chí Châu Tử Tư và Nguyễn Hữu Ngoan chỉ huy đã vây đánh đồn Long Khốt, buộc địch phải rút về đất Cam-pu-chia lập đồn mới.
Sau khi bọn lính đồn Long Khốt rút chạy, hàng trăm đồng bào xã Thái Bình Trung đã tập hợp thành hàng ngũ, tuần hành thị uy rồi cùng với lực lượng Thanh niên Tiền phong giương cờ đỏ sao vàng, cờ búa liềm kéo về chiếm Nhà việc của bọn tề làng ở chợ Long Khốt.
Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Thái Bình Trung đã thắng lợi hoàn toàn. Sau 15 năm kiên cường đấu tranh chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhân dân Thái Bình Trung đã được sống trong độc lập tự do, mục tiêu mà biết bao người Việt Nam đã đổ máu xương để giành lại từ tay thực dân Pháp ngót 100 năm qua. Trải qua các giai đoạn đấu tranh cách mạng, dù gặp nhiều tổn thất hy sinh, nhưng nhân dân Thái Bình Trung vẫn kiên cường bất khuất, một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm theo Đảng đến cùng. Nhờ đó, từ thân phận nô lệ, nhân dân Thái Bình Trung đã trở thành người làm chủ bản thân, làm chủ quê hương đất nước. Đây thực sự là một sự thay đổi có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Bởi thế, khi thực dân Pháp không từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam, nổ súng tái chiếm Nam Bộ vào ngày 23-9-1945, nhân dân Thái Bình Trung lập tức đứng lên chống lại kẻ thù, viết tiếp những trang sử vàng oanh liệt trong lịch sử chống ngoại xâm của xã nhà.
II.THÁI BÌNH TRUNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP 1945-1954:
Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Thái Bình Trung hoàn toàn thắng lợi, chính quyền cách mạng làng Thái Bình Trung được thành lập để quản lý các mặt của đời sống xã hội thay cho chính quyền cũ. Cơ cấu của chính quyền cấp làng là Ủy ban nhân dân cách mạng với 5 chức danh: chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên thư ký, ủy viên tài chính, ủy viên quân sự kiêm an ninh. Đồng chí Châu Tử Tư được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của làng Thái Bình Trung. Bên cạnh Ủy ban nhân dân cách mạng, Mặt trận Việt Minh làng Thái Bình Trung cũng được thành lập do đồng chí Nguyễn Hữu Ngoan làm chủ nhiệm. Các đoàn thể nhân dân thuộc Mặt trận Việt Minh cũng được thành lập để ủng hộ, cổ vũ, động viên phong trào cách mạng của nhân dân. Hội trưởng Hội Phụ nữ là bà Nguyễn Thị Mới, Hội trưởng Nông hội là ông Đinh Văn Đế. Về quân sự, chính quyền xã thành lập đội Tự vệ chiến đấu do ông Mùi chỉ huy, trên cơ sở lực lượng Thanh niên Tiền phong trước đây. Lực lượng này đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng, bảo đảm an ninh trật tự trong thôn xóm. Mỗi đêm, đội Tự vệ chiến đấu đều tuần tra dọc biên giới để giữ gìn trật tự trị an, chống trộm cướp.
Sau khi cách mạng thành công chính quyền cách mạng nhanh chóng ổn định tình hình, quản lý trật tự xã hội thay cho chính quyền cũ. Việc đầu tiên là truất hữu ruộng đất, đìa bàu của bọn địa chủ, phú nông, hội tề chia cho dân nghèo. Mặt khác, chính quyền động viên nhân dân chăm lo phát triển sản xuất, đẩy mạnh khai hoang phục hóa, không để nạn đói xảy ra. Tổ y tế được thành lập do bà Nguyễn Thị Bá phụ trách để chăm lo sức khỏe cho dân, vận động mọi người ăn ở hợp vệ sinh, đề phòng bệnh dịch. Về giáo dục, chính quyền tổ chức các lớp học Bình dân học vụ để xóa nạn mù chữ cho nhân dân. Dù phải học vào ban đêm nhưng nhân dân trong xã tham gia học tập rất hăng hái. Nhờ những lớp học bình dân học vụ này mà có những người đã đầu hai thứ tóc mới lần đầu tiên biết đọc, biết viết. Hưởng ứng lời kêu gọi của chính quyền, nhân dân Thái Bình Trung đã thực hiện phong trào Hũ gạo nuôi quân rất sôi nổi. Mỗi gia đình đều có 1 hũ gạo, mỗi khi nấu cơm thì bớt lại một chén bỏ vào hũ để cho các chiến sĩ ăn no đánh giặc.
Chỉ một tháng sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, thực dân Pháp đã nổ súng tái chiếm Nam Bộ vào ngày 23-9-1945. Ở vùng biên giới thuộc tỉnh Tân An, trong đó có xã Thái Bình Trung, thực dân Pháp thi hành thủ đoạn chia rẽ tình đoàn kết giữa 2 dân tộc Việt Nam và Cam-pu-chia để dễ dàng thực hiện âm mưu xâm lược. Chúng kích động người Cam-pu-chia bằng cách rêu rao rằng người Việt đã chặt đầu 3 người Miên chụm lại làm ông táo nấu nước trà uống, đã vậy còn trêu ghẹo là:”Mầy đừng nhúc nhích kẻo đổ nước trà của ông”. Mắc mưu bọn chúng, người Cam-pu-chia đã liên kết cùng thực dân Pháp gây hấn với Việt Nam trên vùng biên giới. Trước tình hình trên, chính quyền cách mạng Thái Bình Trung một mặt tổ chức lực lượng chuẩn bị đánh Pháp, mặt khác dùng nhiều hình thức tuyên truyền, giải thích, vạch trần âm mưu, thủ đoạn của Pháp để duy trì tình đoàn kết, hữu nghị với nhân dân Cam-pu-chia. Ngày mùng 7 tháng 10 năm ất dậu (11-11-1945), quân Pháp và quân Cam-pu-chia tràn qua biên giới từ Bình Hiệp lên đến Hưng Điền, đốt hơn 150 nhà dân, giết hại 17 người. Nhân dân Thái Bình Trung phải sơ tán đi khắp nơi, chỉ còn đội tự vệ chiến đấu của xã ở lại phối hợp cùng cảm tử quân của huyện Mộc Hóa bảo vệ biên giới. Đến đầu năm 1946, ta đẩy lùi bọn giặc về bên kia biên giới, nhân dân Thái Bình Trung mới lần lượt trở về xã. Tháng 7-1946, địch đánh chiếm Mộc Hóa, xây đồn cấp tiểu đoàn, sau đó, chúng đóng tiếp đồn Long Khốt để làm 1 điểm chốt quan trọng ở vùng biên giới. Ngày 2-9-1946, Mặt trận Việt Minh huyện Mộc Hóa tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại xã Vĩnh Thạnh để kỷ niệm 1 năm ngày Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hàng trăm đồng bào Thái Bình Trung đã tham dự cuộc mít tinh này. Sau cuộc mít tinh, đồng bào Thái Bình Trung đã trương băng cờ, tổ chức tuần hành trên bộ và dưới kinh để biểu dương khí thế cách mạng. Lúc bấy giờ, bọn Pháp tuy đã đóng quân ở đồn Long Khốt nhưng không thể khống chế tình hình xã Thái Bình Trung, ngược lại, chúng còn bị lực lượng tự vệ chiến đấu của các xã Thái Bình Trung, Tuyên Bình, Hưng Điền….bao vây. Một trung đội lính Pháp ở đồn này bị ta cô lập, không dám ra ngoài. Đầu năm 1947, cấp trên giao tỉnh đội Tân An và huyện đội Mộc Hóa huy động lực lượng đắp cản trên kinh Dương Văn Dương để ngăn chặn tàu giặc từ Tân An tấn công lên vùng căn cứ. Được sự vận động của chính quyền xã, hàng trăm dân công Thái Bình Trung đã đem xuồng chở đất tham gia đắp cản. Các mẹ thuộc Hội mẹ chiến sĩ cũng hăng hái nấu cơm, gói bánh tét phục vụ lực lượng đắp cản. Đến năm 1947, xã Thái Bình Trung chỉ có 2 đảng viên là Châu Tử Tư và Nguyễn Hữu Ngoan nên chưa thành lập chi bộ. Các đồng chí nói trên phải sinh hoạt ghép với chi bộ xã Vĩnh Lợi và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Hướng và đồng chí Châu Hữu Nghĩa (cán bộ huyện ủy Mộc Hóa). Về mặt tổ chức, từ năm 1947, đồng chí Châu Tử Tư là Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh xã, kiêm phụ trách công tác an ninh, đồng chí Nguyễn Hữu Ngoan phụ trách công tác Mặt trận và đoàn thể, đồng chí Lê Văn Quang phụ trách công tác văn hóa-thông tin. Các đoàn thể cứu quốc ở xã như: Nông hội, Thanh niên, Phụ nữ…đều lớn mạnh. Tháng 3-1947, Chính phủ quyết định thành lập tỉnh đội, huyện đội, xã đội dân quân thuộc Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh các cấp. Theo quyết định của chính phủ, xã đội Thái Bình Trung được thành lập do ông Mùi làm Xã đội trưởng. Đội Tự vệ chiến đấu cũng được chuyển thành đội du kích xã. Từ khi thành lập, du kích xã Thái Bình Trung tăng cường hoạt động đánh địch một số trận ở đồn Long Khốt, Ngã ba Bình Châu và Cả Đôi, diệt 2 tên địch, thu được 1 súng.
Đầu năm 1948, chi bộ xã Thái Bình Trung được thành lập, gồm 3 đảng viên là Châu Tử Tư, Nguyễn Hữu Ngoan, Lê Văn Quang, do đồng chí Châu Tử Tư làm Bí thư. Tuy nhiên, do lực lượng đảng viên còn mỏng nên những đảng viên thuộc chi bộ Thái Bình Trung vẫn sinh hoạt ghép với chi bộ Vĩnh Lợi. Chi bộ Thái Bình Trung đã cùng với Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh vận động nhân dân tổ chức lượng đốn tràm vạt nhọn cắm ngang sông để chặn tàu Pháp. Bên cạnh đó, ta cũng đào đặt nhiều hố chông trên đường từ Long Khốt về gò Măng Đa. Hệ thống hố chông này đã diệt 1 tên giặc và làm bị thương nhiều tên khác. Chi bộ còn phát động phong trào thi thua để làm cơ sở cho công tác phát triển đảng. Qua phong trào thi đua, nhiều quần chúng ưu tú đã được chi bộ Thái Bình Trung kết nạp vào Đảng Cộng sản. Đến tháng 7-1948, chi bộ Thái Bình Trung phát triển lên trên 10 đảng viên, gồm các đồng chí: Châu Tử Tư, Nguyễn Hữu Ngoan, Lê Văn Quang, Nguyễn Hữu Ngoạt, Nguyễn Hữu Nhật, Trương Văn Bảy, Lê Văn Trước…Chi bộ đã chính thức ra mắt nhân dân và tách khỏi chi bộ Vĩnh Lợi. Chi bộ đã lãnh đạo các đoàn thể vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào kháng chiến như: bình dân học vụ, hũ gạo nuôi quân, tòng quân giết giặc….
Trong năm 1948, huyện Mộc Hóa thành lập 2 đại đội bộ đội địa phương và du kích tập trung ở các xã. Lúc bấy giờ xã Thái Bình Trung có 4 tiểu đội du kích tập trung, chưa kể du kích ấp và tự vệ. Du kích tập trung xã Thái Bình Trung đã phối hợp với du kích các xã lân cận bao vây đồn Long Khốt, đồng thời phục kích chặn đánh bọn địch từ Soài Riêng qua cứu viện. Đồn Long Khốt bị ta cô lập hoàn toàn, bọn địch từ Soài Riêng cũng không dám bung ra yểm trợ cho đồn Long Khốt.
Tháng 8-1948, Bộ tư lệnh khu 8 chủ trương đánh một trận lớn để củng cố căn cứ địa, đồng thời tập dợt phương thức phối hợp chiến đấu cho bộ đội chủ lực, tỉnh, huyện và du kích tập trung các xã. Mục tiêu được chọn là đồn Mộc Hóa với chiến thuật “công đồn đả viện”. Lực lượng tham gia trận đánh là Tiểu đoàn 307, 2 đại đội của Trung đoàn 120, bộ đội địa phương Mộc Hóa và du kích tập trung các xã trong huyện, trong đó có du kích Thái Bình Trung. Trong trận này, du kích Thái Bình Trung được giao nhiệm vụ phục kích bọn địch ở đồn Long Khốt và bọn tiếp viện từ Soài Riêng qua. Để chuẩn bị tốt cho trận đánh, nhân dân Thái Bình Trung đã nhiệt tình ủng hộ lương thực, thực phẩm, các mẹ, các chị lo nấu cơm tiếp tế cho mặt trận, thanh niên nam nữ hăng hái đi dân công hỏa tuyến. Trận Mộc Hóa xảy ra trong 3 ngày (16,17,18-8-1948) với kết quả: ta bắt sống đồn trưởng Louis Bertrand, diệt gần 1 tiểu đoàn địch. Riêng mặt trận đánh địch từ Soài Riêng ra tiếp viện cho đồn Long Khốt, du kích Thái Bình Trung và Tuyên Bình đã diệt 6 tên, làm bị thương 11 tên khác.
Sang năm 1949, để việc phối hợp chiến đấu được chặt chẽ hơn, du kích liên xã Thái Bình Trung, Tuyên Bình, Vĩnh Lợi được thành lập với quân số 3 trung đội, phụ trách mặt trận bao vây đồn Long Khốt. Ban chỉ huy thống nhất mặt trận do đồng chí Quang làm chỉ huy trưởng. Du kích liên xã đã luân phiên bao vây đồn Long Khốt suốt 13 tháng, diệt và làm bị thương 36 tên địch rồi diệt luôn đồn.
Tháng 6-1949, địch huy động 4000 quân, 200 xe lội nước, chia làm 4 mặt càn quét vào vùng căn cứ cách mạng Đồng Tháp Mười. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Khu 8 đã thành lập nhiều mặt trận chống càn. Trong đó, mặt trận biên giới có nhiệm vụ đánh địch từ phía Cam-pu-chia sang, do du kích Thái Bình Trung, Tuyên Bình, Vĩnh Lợi, Vĩnh Thạnh, Hưng Điền phụ trách. Sau tám ngày càn quét, bọn địch đã điên cuồng bắn giết, đốt phá, gây ra nhiều tội ác nhưng cuối cùng đều bị thất bại. Tại mặt trận biên giới, khi bọn địch từ Svây-riêng tiến sang giải vây cho đồn Long Khốt đã bị lực lượng du kích tập trung-trong đó có du kích xã Thái Bình Trung chặn đánh tại vũng Tầm Lon. Ta diệt và làm bị thương 27 tên, trong đó có một trung úy chỉ huy, đuổi bọn còn lại chạy về bên kia biên giới theo lộ Ba Giáp.
Đầu năm 1950, xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập tỉnh căn cứ Đồng Tháp Mười bao gồm huyện Mộc Hóa của tỉnh Tân An, huyện Cái Bè và Cai Lậy của tỉnh Mỹ Tho và một phần huyện Cao Lãnh của tỉnh Sa Đéc. Cấp huyện được giải thể, tỉnh chỉ đạo trực tiếp các xã. Nhiệm vụ của tỉnh là xây dựng Đồng Tháp Mười thành một khu căn cứ vững mạnh về mọi mặt, đảm bảo các điều kiện cho cuộc kháng chiến lâu dài. Ban Phòng thủ Đồng Tháp Mười cũng được thành lập để thực hiện công tác huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật cho du kích, vận động nhân dân, các lực lượng vũ trang trồng cây gây rừng, đào kinh đắp cản, đắp mô chướng ngại, ngăn xe tăng địch vào căn cứ. Hưởng ứng vận động của ban Phòng thủ Đồng Tháp Mười, nhân dân Thái Bình Trung đã hăng hái tham gia vào lực lượng dân công đi đào kinh Ma Ren, phá lộ Rồ, phá cầu Sáu Huê, đồng thời trồng cây gây rừng, đào công sự, xây dựng lộ mới, cầu mới cho bộ đội hành quân được thuận tiện. Phong trào dân công mạnh mẽ ở Thái Bình Trung đã góp phần bảo vệ vững chắc vùng căn cứ cách mạng Đồng Tháp Mười, ngăn chặn có hiệu quả các cuộc càn quét của địch.
Từ cuối năm 1950, sau thắng lợi của chiến dịch Biên Giới, ta bắt đầu chuyển sang thế chủ động tiến công địch. Giặc Pháp tuy thất bại trên chiến trường nhưng được Mỹ hà hơi tiếp sức nên vẫn tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, tăng cường càn quét, bắt lính, gây cho ta nhiều khó khăn. Lúc bấy giờ, theo chủ trương của xứ ủy Nam Bộ, khu 7,8,9 bị giải thể, để thành lập Phân liên khu miền Đông và Phân liên khu miền Tây, lấy sông Tiền làm ranh giới. Các tỉnh cũng được sáp nhập, trong đó, huyện Mộc Hóa được nhập về tỉnh Mỹ Tho.
Thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế kháng chiến và ra chỉ thị về công tác tạm cấp ruộng đất cho nông dân của Trung ương, huyện ủy Mộc Hóa đã tiến hành chia lại ruộng, rạch, đìa, bàu cho nông dân để động viên tiềm lực vật chất và tinh thần của nhân dân trong công cuộc kháng chiến. Nhờ đó, mỗi hộ dân ở Thái Bình Trung đều được giao đất để làm ruộng, đào đìa, trồng tràm. Nhân dân hết sức phấn khởi, tin tưởng vào cách mạng và ngày càng đóng góp tích cực hơn cho công cuộc kháng chiến.
Từ năm 1951, giặc Pháp tăng cường đánh phá vùng Đồng Tháp Mười, trong đó có xã Thái Bình Trung, hòng đè bẹp ý chí kháng chiến của quân và dân ta, âm mưu tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo cách mạng ở khu vực này. Ngoài hoạt động quân sự, chúng còn tiến hành phá hoại kinh tế kháng chiến. Để triệt tiêu nguồn sức kéo của nông dân, chúng đưa ra khẩu hiệu”Bắn chết 1 con trâu là diệt 1 tiểu đội vệ quốc đoàn”. Vì thế, bộ binh, xe tăng, máy bay địch mỗi khi phát hiện trâu là xả súng bắn. Để bảo vệ nguồn sức kéo, nhân dân Thái Bình Trung phải làm hầm ở những gò cao cho trâu trú ẩn. Trong tình thế bị càn quét, du kích Thái Bình Trung một mặt phối hợp với bộ đội chống càn, đồng thời tiếp tục vây đồn Long Khốt. Năm 1951, du kích Thái Bình Trung do đồng chí Ba Tuyến và Tư Quang chỉ huy đã đánh đồn Long Khốt, làm bị thương một số lính Pháp.
Từ giữa năm 1951, thực dân Pháp liên tục càn quét, đốt phá, bắn giết vùng căn cứ cách mạng Đồng Tháp Mười. Sang 1952, tháng 2 đến tháng 6, địch liên tiếp mở 3 cuộc càn lớn đốt sạch nhà cửa của nhân dân sống dọc biên giới Việt Nam-Campuchia, trong đó có xã Thái Bình Trung. Nhân dân trong xã phải tản cư vào vùng cách mạng kiểm soát. Vì vậy, từ giữa năm 1952, Thái Bình Trung trở thành xã trắng. Tuy nhiên, đội du kích xã vẫn còn duy trì hoạt động trong lực lượng du kích liên xã.
Đầu năm 1953, Đại hội đảng bộ tỉnh Mỹ Tho (Mỹ Tân Gò) họp và đề ra nhiệm vụ chung là:”Bảo vệ người và của, tiếp tục đánh địch, không để chúng củng cố, bình định, phá âm mưu Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt, đẩy mạnh công tác dân vận và địch ngụy vận, phát triển dân quân du kích và bộ đội địa phương”. Đại hội cũng xác định nhiệm vụ của huyện Mộc Hóa là phải đảm bảo hậu cần chi viện cho chiến trường toàn tỉnh và tỉnh Soài Riêng của nước bạn Cam-pu-chia. Trên cơ sở đó, đại hội đã quyết định thành lập các mặt trận: Biên Giới, Dương Văn Dương và Nguyễn Văn Tiếp. Trong đó, xã Thái Bình Trung, Vĩnh Thạnh, Tuyên Bình, Vĩnh Lợi thuộc mặt trận Biên Giới. Nhiệm vụ của mặt trận này là bao vây các đồn bót dọc biên giới và chặn đánh bọn lính trong đồn, không cho chúng bung ra càn quét. Thực hiện nghị quyết Đại hội tỉnh đảng bộ, trung đội du kích liên xã Thái Bình Trung, Tuyên Bình, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Hưng Điền được thành lập, phối hợp với đại đội 1072 tập kích đồn Long Khốt và bao vây đồn này suốt 1 tháng ròng, diệt và làm bị thương 16 tên địch. Đến tháng 8-1953, trước sức ép của ta, bọn địch ở đồn Long Khốt phải bỏ đồn tháo chạy về bên kia biên giới.
Trên đà thắng lợi, trung đội du kích liên xã và đại đội 1072 tiếp tục bao vây đồn Sóc Lúa, Cà Kô, tiến tới vây ép tỉnh lỵ Soài Riêng. Trong vòng 4 tháng, ta vừa vây ép các đồn dọc biên giới vừa phối hợp du kích nước bạn giải phóng các xã dọc đường biên từ Kông Pông Rồ đến Soài Riêng, diệt và bức rút 12 đồn, diệt 96 tên, làm bị thương 86 tên địch.
Sang năm 1954, chiến trường chuyển biến theo chiều hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Do địch đã tập trung lực lượng vào chiến trường Điện Biên Phủ nên ở Nam Bộ, địch chỉ còn lực lượng cấp tiểu đoàn trở xuống. Riêng khu vực Đồng Tháp Mười đã được cách mạng giải phóng hoàn toàn. Thảm bại tại chiến trường Điện Biên Phủ, thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Geneve vào 20-7-1954 về việc kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Với Hiệp định này, cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam, trong đó có nhân dân Thái Bình Trung đã kết thúc thắng lợi. Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, xã Thái Bình Trung có 27 đảng viên, 41 người thoát ly hoạt động cách mạng, trong đó có 1 cán bộ tỉnh, 2 cán bộ huyện. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, quân và dân Thái Bình Trung đã vượt qua nhiều hy sinh gian khổ để góp phần xây dựng, bảo vệ vùng căn cứ cách mạng, phát triển chiến tranh du kích, chống lại các cuộc càn quét của địch, tích cực tăng gia sản xuất, tạo ra thật nhiều lương thực để ủng hộ kháng chiến. Lực lượng du kích đã độc lập tác chiến 5 trận và phối hợp tác chiến cùng với bộ đội và du kích các xã bạn, liên tục bao vây đồn Long Khốt, cô lập bọn địch đang trú đóng nơi đây.Về phong trào, Hội mẹ chiến sĩ của xã hoạt động mạnh nhất, được Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh Nam Bộ tặng một bằng khen về thành tích “Trọn việc nước, vẹn việc nhà”. Những thành tích này đã góp phần vào thắng lợi chung của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
CHƯƠNG BA
THÁI BÌNH TRUNG TRONG 21 NĂM CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ
XÂM LƯỢC
I.Sắp xếp lực lượng, kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang tự vệ, vượt qua thời kỳ khó khăn(1954-1959)
Theo Hiệp điïnh Geneve, đất nước ta được chia làm hai miền, lấy sông Bến Hải làm giới tuyến tạm thời để chờ ngày tổng tuyển cử, thống nhất đất nước vào năm 1956. Tuy nhiên, để thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, đế quốc Mỹ đã giật dây cho Ngô Đình Diệm bày trò “trưng cầu dân ý” truất phế Bảo Đại, xây dựng nên chính quyền phản động thân Mỹ, trắng trợn phản bội Hiệp định Geneve, không hiệp thương tổng tuyển cử, đồng thời tiến hành đàn áp, giết hại những người kháng chiến cũ và những cán bộ cách mạng được Đảng phân công ở lại miền Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã tiến hành chiến dịch “Tố cộng, Diệt cộng”, ra luật 10/59, lê máy chém khắp miền Nam để ngang nhiên giết hại những người Cộng sản và đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Vì thế, từ năm 1954-1959 là thời kỳ đen tối của cách mạng miền Nam, trong đó có xã Thái Bình Trung.
Về phía ta, sau ngày 20-7-1954, đường lối chung cho cách mạng miền Nam là đấu tranh trên cơ sở pháp lý của Hiệp định Geneve, tiến tới mục tiêu tổng tuyển cử, hòa bình, thống nhất nước nhà. Biện pháp cách mạng là đấu tranh chính trị, không sử dụng vũ trang. Tháng 10-1954, Xứ ủy đã mở hội nghị tại Rạch Giá để quán triệt tình hình và xác định nhiệm vụ trước mắt là bám chặt địa bàn để lãnh đạo nhân dân và các lực lượng cách mạng đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định và đòi hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Tất cả các địa phương chưa được sử dụng biện pháp vũ trang vì phải bảo vệ bằng được hòa bình, tạo điều kiện cho miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương chiến lược và để cho các lực lượng cách mạng ở miền Nam có điều kiện củng cố vững chắc. Xứ ủy còn chỉ đạo những biện pháp cụ thể như duy trì các tổ chức Đảng theo hệ thống từ cấp xứ đến cơ sở, các cấp ủy từ huyện trở lên phải rút vào bí mật; ở từng nơi, các chi bộ có thể tổ chức hai hình thức: chi bộ công khai và chi bộ mật; chuyển hình thức đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị; đảng viên sinh hoạt theo chi bộ mình cư trú và hạn chế tiếp xúc giữa các đảng viên nếu không có yêu cầu công tác để đảm bảo bí mật. Để đề phòng đối phương lật lọng, Xứ ủy đã chỉ thị cho các địa phương chôn giấu vũ khí và bố trí một số cán bộ quân sự ở lại miền Nam.
Theo quy định của Hiệp định, vùng Đồng Tháp Mười là khu vực mà cách mạng phải bàn giao lại cho địch trong vòng 100 ngày. Do vậy, từ sau ngày 20-7-1954, chính quyền cách mạng đã tập trung giải quyết những công việc quan trọng như: sắp xếp, bố trí lực lượng cán bộ, đảng viên, cấp giấy chủ quyền ruộng đất cho nông dân. Đồng thời chính quyền cách mạng cũng huy động cán bộ, chiến sĩ giúp nhân dân xây dựng cầu, đường, trường học, nhà cửa đã bị hư hại trong chiến tranh. Những việc làm trên đã củng cố niềm tin, cổ vũ mạnh mẽ quyết tâm cách mạng của nhân dân trong cuộc đấu tranh với kẻ thù mới.
Tại xã Thái Bình Trung, sau ngày đình chiến, nhân dân đi tản cư ở các nơi đã lần lượt trở về xã. Lúc bấy giờ, chi bộ xã gồm có 9 đảng viên, do đồng chí Trần Ngọc Năng làm bí thư. Thực hiện chỉ thị của cấp trên, chi bộ đã chuyển từ hình thức hoạt động công khai sang hoạt động bí mật để thích ứng với tình hình mới.
Về phía địch, từ cuối năm 1954, lực lượng giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo tràn vào chiếm đóng vùng Đồng Tháp Mười. Bọn này tuy chống lại Ngô Đình Diệm nhưng cũng ra sức truy lùng, bắt bớ, bắn giết cán bộ, đảng viên và những người kháng chiến cũ. Chúng đã tập trung đồng bào, làm áp lực để tìm ra những cán bộ, đảng viên còn ở lại. Nhân dân Thái Bình Trung không những tìm mọi cách chở che, đùm bọc các cán bộ cách mạng, đồng thời tố cáo, vạch trần hành động vi phạm Hiệp định của địch.
Trong thời gian 1955-1956, ngụy quyền Ngô Đình Diệm tập trung vào việc đánh dẹp các giáo phái thân Pháp. Đến tháng 6-1956, các giáo phái đã bị thanh toán, Mỹ-Diệm tiến hành củng cố quân đội và chính quyền tay sai. Từ năm 1957, chúng bắt đầu xây dựng nhiều khu dinh điền ở dọc biên giới nhằm ngăn chặn hành lang chiến lược và phá hoại vùng căn cứ cách mạng Đồng Tháp Mười. Chúng bắt nhân dân tại chỗ phải lùi sâu vào nội địa cách biên giới khoảng 4km để thành lập khu dinh điền. Gần 20.000 người, phần lớn là giáo dân được chúng đưa từ miền Bắc vào sống trong các khu này. Ở Thái Bình Trung, địch xây dựng khu dinh điền ở ấp Trung Môn vào năm 1958 và đưa lực lượng, phương tiện về củng cố đồn Long Khốt, xem đây là một trong những “pháo đài chống cộng” ở vùng biên giới. Hầu hết dân cư ở Thái Bình Trung đều bị tập trung vào khu dinh điền Trung Môn. Chúng xây dựng bộ máy ngụy quyền gọi là Hội đồng hương chính gồm 5 chức danh là: Đại diện, Ủy viên cảnh sát, Ủy viên Tài chánh-Thuế vụ, Ủy viên Kinh tế và Ủy viên Hộ tịch. Ở cơ sở, địch thành lập bộ máy tay sai gồm trưởng, phó ấp, liên gia trưởng để kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của nhân dân. Xã Thái Bình Trung còn có 2 trung đội lính, nhiều cảnh sát và bọn tình báo, mật thám. Trong đó, khét tiếng gian ác là tên cảnh sát Lê Văn Chân. Bọn chúng thường càn quét, cướp của, đốt nhà để bắt buộc nhân dân vào sống trong khác khu tập trung do chúng kiểm soát. Nói chung, cho đến năm 1956, do sự đàn áp, khủng bố ác liệt của kẻ thù, trong khi cấp trên chưa cho phép đấu tranh vũ trang, phong trào cách mạng miền Nam nói chung và ở Thái Bình Trung nói riêng tạm thời lắng dịu.
Trước tình hình cách mạng miền Nam đang tổn thất nghiêm trọng, đồng chí Lê Duẩn đã biên soạn đề cương cách mạng miền Nam và được Xứ ủy thông qua vào tháng 12-1956 với nội dung chính như sau:”Con đường tiến lên của cách mạng miền Nam là phải dùng bạo lực, tổng khởi nghĩa giành chính quyền”. Tháng 4-1957, ta thành lập tỉnh Kiến Tường gồm 4 vùng, tương ứng với 4 quận của địch. Thực hiện chỉ đạo của cấp trên, Ban cán sự vùng đã xây dựng và củng cố các chi bộ, xã đội, thành lập đội du kích, các ban đấu tranh chính trị ở các xã. Tại Thái Bình Trung, dưới sự lãnh đạo của chi bộ, lực lượng du kích mật và ban đấu tranh chính trị được thành lập. Du kích đã phối hợp với bộ đội vùng 8 đột nhập vào các khu gom dân, hạ uy thế địch, phát động phong trào quần chúng nổi dậy phá thế kìm kẹp. Nhờ đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền và xây dựng cơ sở, lực lượng vũ trang dần dần bám được trong dân để hướng dẫn bà con đấu tranh. Sang năm 1958-1959, phong trào cách mạng ở Kiến Tường nói chung và Thái Bình Trung nói riêng dần dần hồi phục. Tháng 3-1958, bộ đội địa phương vùng 8 phối hợp tiểu đoàn 504 đánh vào trụ sở của đảng Cần lao nhân vị do 1 tiểu đội dân vệ đóng giữ, cách Long Khốt chừng 600m. Ta bắt sống 6 tên, thu 4 súng, giải tán Ban chấp hành đảng Cần lao nhân vị làm bọn chúng không dám tổ chức trở lại. Sang năm 1959, du kích xã kết hợp cán bộ chính trị, binh vận đột nhập vào ấp Trung Môn, cảnh cáo, giải tán tề ấp, phát động quần chúng phá thế kìm kẹp. Các khu dinh điền, khu trù mật đều bị phá lỏng[1]. Ta bảo vệ được phần lớn đìa, bàu, ruộng vườn mà cách mạng đã chia cho nông dân, chi bộ đảng và lực lượng du kích xã được củng cố.
Nhìn chung, từ sau Hiệp định Geneve, phong trào cách mạng ở Thái Bình Trung tạm thời thoái trào do sự đàn áp, khủng bố ác liệt của Mỹ Diệm. Từ khi Đề cương Cách mạng miền Nam và nhất là Nghị quyết 15 của Trung ương ra đời (1959), phong trào cách mạng ở Thái Bình Trung dần dần hồi phục. Vượt qua giai đoạn đầy khó khăn thử thách này, quân và dân Thái Bình Trung tạo nên tiền đề để tham gia phong trào Đồng Khởi.
2.Thái Bình Trung trong phong trào Đồng Khời (1960-1961) .
Tháng 5-1959, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị 15 và ra nghị quyết (Nghị quyết 15) đánh dấu một bước ngoặt về sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng đối với cách mạng miền Nam, tạo điều kiện phát động một phong trào đấu tranh rộng lớn của quần chúng chống lại chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm.
Cuối năm 1959, tinh thần nghị quyết 15 của Trung ương được phổ biến tới Long An. Tiếp thu tinh thần nghị quyết 15 của Trung ương, tỉnh ủy Long An đã đề ra phương châm đấu tranh như sau: “Dùng lực lượng vũ trang tiến công vào đồn bót và bộ máy kềm kẹp quần chúng ở thôn, xã để làm đòn xeo phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở cơ sở”.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết 15, tỉnh ủy Kiến Tường trên cơ sở tình hình thực tiễn đã đề ra chủ trương lấy tấn công quân sự làm đòn xeo, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, giải tán tề xã, tề ấp, phá các khu dinh điền, khu trù mật, giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng ở nông thôn. Tỉnh ủy chỉ đạo triển khai tinh thần Nghị quyết 15 đến các chi bộ, các tổ chức vũ trang và quần chúng cách mạng của tỉnh. Sau nhiều năm bị Mỹ –Diệm kìm kẹp, áp bức mà không được phép vũ trang chống lại, Nghị quyết 15 đã được quần chúng hân hoan đón nhận và hưởng ứng mạnh mẽ.
Khi nhận được tinh thần Nghị quyết 15, chi bộ Thái Bình Trung có 10 đảng viên, do đồng chí Lê Văn Bình làm bí thư. Chi bộ đã triển khai chỉ đạo khởi nghĩa của cấp trên, thành lập xã đội, ban đấu tranh chính trị, binh vận, các tổ chức quần chúng. Du kích xã có 1 tiểu đội, được trang bị vũ khí thô sơ.
Ngày 15-1-1960, tỉnh ủy Kiến Tường phát lệnh khởi nghĩa. Trong 3 đợt Đồng khởi, được sự hỗ trợ của đơn vị 408, du kích Thái Bình Trung nhiều lần đột nhập vào ấp Trung Môn, diệt ác ôn, phát động nhân dân nổi dậy đòi về ruộng vườn làm ăn sinh sống. Cho đến cuối năm 1961, ta đã trừng trị một số ác ôn, phá rã tề xã, phá lỏng khu dinh điền Trung Môn, xây dựng được cơ sở cách mạng trong khu vực địch kiểm soát.
Từ khi nghị quyết 15 ra đời đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng và qua phong trào Đồng khởi, tình hình cách mạng xã Thái Bình Trung đã dần dần chuyển biến. Từ thế bị động trước sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù, bằng chính trị kết hợp vũ trang, ta đã phá lỏng thế kềm kẹp của địch, phát động nhân dân đấu tranh đòi trở về bám trụ vùng giải phóng để lao động sản xuất.
3. Thái Bình Trung giai đoạn 1961-1965
Thắng lợi của phong trào Đồng khởi năm 1960 của ta đã làm cho chiến lược “Tố cộng, diệt cộng” của địch bị phá sản và ngụy quyền cơ sở sụp đổ. Tình hình trên buộc đế quốc Mỹ và tay sai phải chuyển sang chiến lược chiến tranh mới gọi là “Chiến tranh đặc biệt”. Đây là một bộ phận của “chiến lược toàn cầu phản ứng linh hoạt” của Mỹ. Thực hiện chiến lược này, Mỹ tài trợ mọi chi phí chiến tranh, từ cung cấp vũ khí, cố vấn quân sự đến xây dựng quân đội cho ngụy quyền Sài Gòn, dùng nó làm công cụ chủ yếu để đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân và tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng. Mỹ còn đề ra một kế hoạch gồm 3 bước. Bước một là thành lập 16.000 ááp chiến lược trong 2 năm 1961-1962 để bình định miền Nam trong 18 tháng. Bước hai, Mỹ sẽ khôi phục kinh tế, hoàn thiện bình định, tăng cường sức mạnh cho ngụy quân. Bước ba, Mỹ sẽ phát triển kinh tế miền Nam, kết thúc chiến tranh, rút quân Mỹ về nước. Vì vậy, ngay từ đầu năm 1965, Mỹ đã sắp xếp lại chiến trường, xây dựng quân ngụy thành đội quân đánh thuê khá mạnh để làm công cụ chủ yếu thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Về tổ chức chiến trường, địch phân chia lãnh thổ thành các vùng chiến thuật, các tiểu khu, chi khu để thuận tiện cho việc càn quét, bình định. Trong đó, tỉnh Kiến Tường thuộc khu chiến thuật Tiền Giang thuộc vùng 4 chiến thuật. Địch điều đến đây 2 trung đoàn thuộc sư đoàn 7 để yểm trợ cho lực lượng bảo an và các đoàn bình định đẩy mạnh càn quét, đánh phá hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng, gom dân vào các ấp chiến lược.
Tại Thái Bình Trung, từ đầu năm 1962, địch xây dựng 3 ấp chiến lược tại Láng Đao, Trung Môn và Kèo Giá. Ý đồ của chúng khi xây dựng ấp chiến lược là bắn một mũi tên mà trúng 3 mục tiêu. Về chính trị, chúng rêu rao cho nhân dân trong ấp tự cai quản dựa trên dân chủ pháp trị, về xã hội, chúng mị dân là sẽ thực hiện xã hội công bằng, cải thiện dân sinh, về quân sự, ấp chiến lược sẽ tách “Cộng sản“ ra khỏi dân, làm cho “Cộng sản” mất lợi thế về chiến tranh, không bổ sung được lực lượng. Mỹ-Diệm còn vũ trang cho dân quân tự vệ làm lực lượng thường trực tại chỗ, đóng vai trò là “bộ phận lưới”, trong khi đó quân chủ lực, bảo an có vai trò mũi dùi. Mục tiêu chiến lược của địch trong việc xây dựng ấp chiến lược là xây dựng những “pháo đài chống cộng” và thực hiện phương châm: “Lấy dân để chiếm đất, chứ không chiếm đất để giữ dân”.
Trước khi tiến hành gom dân, địch tiến hành bắn phá, mở những cuộc càn quét để tiêu diệt lực lượng cách mạng, khủng bố tinh thần nhân dân. Bên cạnh đó, chúng củng cố bộ máy tề xã, tăng cường lực lượng thường xuyên lùng sục, bố ráp để bắt bớ tất cả những người chống đối. Mỗi người dân trong xã từ 18 tuổi đến 45 tuổi đều bị bắt buộc làm dân công đào đắp, rào kẽm gai và vót chông cắm xung quanh ấp chiến lược của chúng.
Mỗi ấp chiến lược đều có kiểu kiến trúc giống như một nhà tù khổng lồ để giam giữ nhân dân với lũy đất và hào cắm chông bao quanh. Ngoài ra, địch còn đóng cọc sắt, rào kẽm gai kiên cố, xây dựng một lô cốt, bố trí lực lượng dân vệ làm nhiệm vụ bảo vệ và tuần tra. Canh gác trong ấp chiến lược là lực lượng Thanh niên chiến đấu được huấn luyện và trang bị vũ khí đầy đủ.
Sau khi địch xây dựng xong các ấp chiến lược, lực lượng cách mạng xã Thái Bình Trung gặp rất nhiều khó khăn. Ta mất dân, mất cơ sở cách mạng vì hầu hết quần chúng đều nằm trong vòng khống chế của địch. Cán bộ cách mạng ở bên ngoài không thể bắt liên lạc với nhân dân trong ấp. Lực lượng cán bộ, đảng viên, du kích buộc phải phân tán thành từng nhóm nhỏ.
Trước tình thế ấy, Tỉnh ủy chủ trương tập trung lực lượng, kiên quyết phá ấp chiến lược để đánh bại âm mưu, thủ đoạn mới của địch. Ban đầu, do chủ quan, chưa nghiên cứu kỹ âm mưu, thủ đoạn của địch nên ta chủ trương phá ấp chiến lược bằng lực lượng bên ngoài. Ban đêm, ta tìm cách đột nhập vào ấp cắt rào, phá bờ thành rồi rút đi. Nhưng đến sáng hôm sau, địch lại bắt dân trong ấp đắp lại bờ thành, rào lại hàng rào kiên cố hơn trước. Chúng còn bắt nhân dân vào ngủ xung quanh đồn bót nên ta không thể tấn công được. Việc phá ấp của ta do vậy không có kết quả. Trong khi đó, địch canh phòng ấp chiến lược ngày càng chặt chẽ hơn. Chúng tăng cường lực lượng kềm kẹp với từ 2-3 trung đội bảo an, dân vệ, thanh niên chiến đấu ở mỗi ấp. Chúng còn bắn pháo bừa bãi vào làng xóm để tiêu diệt lực lượng cách mạng, không cho nhân dân bung ra ngoài và bắt ép nhân dân còn ở bên ngoài vào ấp.
Tháng 11-1962, Khu ủy và Bộ Tư lệnh khu 8 mở hội nghị bàn biện pháp phá ấp chiến lược và đánh càn. Hội nghị xác định phải phá ấp chiến lược bằng 3 lực lượng: quân sự, chính trị và binh vận mà cơ bản là phát động quần chúng từ trong ấp nổi dậy phá ấp, đồng thời phải bố trí lực lượng vũ trang hỗ trợ quần chúng, bảo vệ thành quả đạt được. Thực hiện tinh thần chỉ đạo của hội nghị ban Cán sự vùng 8 đã lãnh đạo bộ đội vùng phối hợp với du kích các xã đột nhập vào các ấp chiến lược để giải tán tề, trừ điệp, phục kích bọn lính đồn bung ra càn quét. Trong năm 1963, du kích và bộ đội đã nhiều lần đột nhập vào ấp chiến lược Trung Môn, Láng Đao diệt ác và phát động quần chúng nổi dậy phá ấp. Trong cao trào phá ấp chiến lược năm 1963, 2 ấp Trung Môn và Láng Đao đều bị ta phá rã.
Về phía địch, để củng cố tình hình, địch đã cho dời quận lỵ quận Tuyên Bình về Long Khốt vào tháng 7-1963, củng cố lại các ấp chiến lược, đồng thời xây dựng thêm đồn bót và tăng cường lực lượng quân sự trú đóng. Từ thời gian này đến năm 1965, lực lượng của địch đóng ở Thái Bình Trung rất mạnh nên lực lượng cách mạng phải tạm lánh sang các xã bạn, phong trào cách mạng tạm thời lắng dịu.
4. Phục hồi, củng cố lực lượng, tham gia tổng công khích, tổng khởi nghĩa xuân Mậu thân-1968.
Từ năm 1965, đế quốc Mỹ quyết định chuyển chiến lược Chiến tranh đặc biệt sang chiến lược Chiến tranh cục bộ nhằm mục đích giành thắng lợi hoàn toàn về quân sự trên chiến trường miền Nam. Để thực hiện chiến lược này, chúng đưa quân và phương tiên chiến tranh hiện đại từ Mỹ sang miền Nam để mở các cuộc phản công tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh không quân đánh phá miền Bắc, cắt đứt nguồn viện trợ từ hậu phương vào chiến trường. Ở miền nam, chúng lấy đồng bằng sông Cửu Long làm chiến trường chủ yếu để thực hiện chương trình bình định, giành dân, vơ vét nhân lực, vật lực tại chỗ cung ứng cho chiến tranh. Lực lượng của chúng chủ yếu là chủ lực ngụy và quân địa phương kết hợp với giang thuyền tiến hành càn quét mật độ cao để thực hiện bình định, đồng thời ra sức ngăn chặn hành lang biên giới Cam-pu-chia và ven biển.
Ở Vùng 8, địch mở nhiều cuộc hành quân quy mô lớn vào vùng giải phóng và dùng lực lượng biệt kích đánh phá tuyến hành lang biên giới của ta. Trước tình hình đó, tỉnh ủy Kiến Tường quyết định tập trung lực lượng mở đợt hoạt động tấn công bọn biệt kích, bảo vệ vùng giải phóng và hành lang biên giới. Đối với xã Thái Bình Trung-nơi đóng các cơ quan đầu não của địch ở quận Tuyên Bình, Tỉnh ủy quyết định tăng cường lực lượng về khôi phục, củng cố lại phong trào cách mạng. Theo tinh thần ấy, vào năm 1966, Tỉnh ủy đã điều đồng chí Lê Công Bình –Ủy viên ban kinh tài về Thái Bình Trung. Đồng chí Lê Công Bình đã rút đồng chí Hai Giảng và Sáu Thông về Thái Bình Trung tập hợp những đảng viên của xã lại để tái lập chi bộ. Sau khi chi bộ Thái Bình Trung được tái lập, đồng chí Lê Công Bình được cấp trên chỉ định giữ chức vụ Quyền bí thư. Sau khi củng cố xong tổ chức đảng, đồng chí Lê Công Bình tiếp tục xây dựng lực lượng du kích. Ban đầu, du kích Thái Bình Trung còn yếu, chưa thể độc lập tác chiến mà chỉ phối hợp chiến đấu với bộ đội là chủ yếu. Một thời gian sau, Tỉnh ủy quyết định điều lực lượng thành lập cho Thái Bình Trung một trung đội tăng cường gồm 42 đồng chí. Trung đội đã mở ngay trận đánh đầu tiên tại Gò Đồn, thu được 7 súng. Phát huy thắng lợi này, trung đội đã thường xuyên phối hợp với bộ đội vùng 8 và du kích các xã bạn bao vây các đồn bót địch trong xã, làm cho chúng co cụm lại, không dám bung ra càn quét như trước. Hoạt động của trung đội tăng cường đã góp phần củng cố vùng giải phóng và mở rộng hành lang biên giới.
Trong hai cuộc tấn công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 Mỹ-ngụy đã thất bại nặng nề nhưng chúng không những không từ bỏ dã tâm xâm lược mà còn tăng cường quân Mỹ, phát triển quân ngụy và đẩy chiến lược Chiến tranh cục bộ lên đỉnh cao vào cuối năm 1967. Tuy nhiên, những cố gắng của chúng không thể làm thay đổi cục diện chiến tranh mà càng làm cho chúng sa lầy.
Trước thời cơ đó, Bộ Chính trị đã quyết định mở cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định vào đầu năm 1968.
Từ giữa năm 1967, bộ đội địa phương các vùng được rút lên để tăng cường cho Tiểu đoàn 504 nên ở các vùng chỉ còn lực lượng du kích. Vì thế ban Cán sự Vùng 8 quyết định đôn du kích các xã để thành lập bộ đội vùng. Theo chỉ đạo của cấp trên, phần lớn quân số trung đội tăng cường của Thái Bình Trung được rút đi để bổ sung lực lượng cho bộ đội Vùng 8.
Vào giữa năm 1967, đồng chí Phan Văn Giảng thay đồng chí Lê Công Bình làm bí thư chi bộ Thái Bình Trung. Đồng thí đã cùng chi bộ lãnh đạo việc bổ sung lực lượng du kích, xây dựng lực lượng đấu tranh chính trị và cơ sở nội tuyến để chuẩn bị cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa.
Đến cuối năm 1967, công tác chuẩn bị ở Thái Bình Trung đã hoàn tất. Trong tổng công kích, tổng khởi nghĩa, Thái Bình Trung được giao nhiệm vụ phối hợp với bộ đội vùng và du kích các xã tấn công dứt điểm quận lỵ Long Khốt, ấp Trung Môn, Láng Đao và chặn tàu địch từ Mộc Hóa lên Long Khốt.
Ngày 31-1-1968, các đơn vị vũ trang, các ban đấu tranh chính trị, binh vận của vùng 8 –trong đó có xã Thái Bình Trung-đã vào vị trí, sẵn sàng đợi lệnh. Đến giờ nổ súng, lực lượng ta đánh vào ấp Trung Môn, pháo kích đồn Đống Đa, bắn cháy 1 xe Jeep trước dinh quận Tuyên Bình, bắt 2 tên tề giáo dục rồi thả tại chỗ. Đến sáng hôm sau, khi bọn lính bảo an từ Măng Đa tiến sang cứu viện Long Khốt, lực lượng ta rút lui an toàn.
Trong đợt 2, đợt 3 của tổng công kích, tổng khởi nghĩa, ta liên tục pháo kích vào quận lỵ Long Khốt, tập kích đồn Đống Đa, hạn chế hoạt động càn quét của địch. Trong thời gian này, chi bộ Thái Bình Trung bám trụ trong vùng yếu để làm công tác phát động quần chúng, gầy dựng cơ sở đảng, xây dựng được 2 cơ sở nội tuyến trong lực lượng phòng vệ dân sự ở ấp Trung Môn.
Nói chung, trong Tổng công kích, tổng khởi nghĩa Mậu thân-1968, chi bộ, quân, dân xã Thái Bình Trung đã chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên, dốc toàn lực để phối hợp cùng các lực lượng của Vùng 8 tấn công vào quận lỵ Long Khốt. Tuy chưa đạt được mục tiêu đề ra, nhưng quân-dân Thái Bình Trung đã góp phần vào thắng lợi chiến lược toàn cục là buộc địch phải xuống nước, ngồi vào bàn đàm phán ở hội nghị Pa-ri.
4. Vượt qua thời kỳ khó khăn sau Mậu thân, khôi phục lực lượng (1968-1972):
Sau 3 đợt Tổng công kích, tổng khởi nghĩa năm 1968, địch tăng cường phản kích làm cho phong trào cách mạng ở Thái Bình Trung gặp rất nhiều khó khăn, du kích bị tiêu hao, giảm sút sức chiến đấu, cơ sở cách mạng bị tổn thất. Trong khi đó lực lượng địch được phục hồi và phát triển đông hơn giai đoạn trước mậu thân.
Sau khi trúng cử Tổng thống vào tháng 11-1968, Nich-Xơn tiếp tục kéo dài cuộc chiến tranh Việt Nam bằng cách đề ra chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Mục tiêu cơ bản của chiến lược này là thôn tính và khống chế miền nam Việt Nam trong quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới. Chúng âm mưu xây dựng đội quân ngụy tay sai hùng hậu để thay thế quân đội Mỹ và dùng 3 phương thức cơ bản là chiến tranh giành dân (bình định), chiến tranh hủy diệt (tìm diệt chủ lực của ta) và chiến tranh bóp nghẹt (phong tỏa hành lang) để giành chiến thắng.
Từ đầu năm 1969, địch tăng cường quân số để phòng thủ thị xã Mộc Hóa, thị trấn Long Khốt[2] và yếu khu Măng Đa, đồng thời tiến hành nhiều cuộc càn quét, bình định. Chúng còn củng cố, xây dựng thêm các ấp chiến lược trá hình gọi là ấp Tân sinh. Nguy hiểm nhất là chúng đã thực hiện kế hoạch Phượng Hoàng để tiêu diệt cơ sở của cách mạng. Lúc bấy giờ, hầu hết nhân dân Thái Bình Trung bị gom vào ấp chiến lược và bị kềm kẹp, khống chế chặt chẽ. Việc liên hệ giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
Từ tháng 4 năm 1968, đồng chí Ba Hồng là bí thư chi bộ Thái Bình Trung hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Mười Giảng-Tỉnh ủy viên tỉnh ủy Kiến Tường. Hoạt động của chi bộ lúc bấy giờ là xây dựng cơ sở cách mạng, cơ sở nội tuyến trong ấp chiến lược, phát động phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Lực lượng du kích vẫn duy trì hoạt động nhưng còn yếu, chưa có thành tích nổi bật. Đáng kể nhất là trận đột nhập quận lỵ Long Khốt của du kích Tuyên Bình vào năm 1969. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Năm Chung, du kích đã vào đến dinh quận, đốt cháy 1 xe lam, làm cho địch bỏ chạy tán loạn rồi rút lui an toàn. Trong giai đoạn này, dù bị kìm kẹp, kiểm soát chặt chẽ nhưng tấm lòng của nhân dân đối với cách mạng chưa bao giờ thay đổi. Bất chấp mọi hiểm nguy, dù ở gần trung tâm đầu não của địch, nhân dân Thái Bình Trung đã hết lòng ủng hộ, giúp đỡ, chở che, đùm bọc cho cách mạng. Có thể nêu những gương điển hình như:
-Ông Lê Văn Lình (Bảy Lình) đã đào hầm nuôi cán bộ ngay trong nhà. Đây là hành động hết sức dũng cảm vì nếu bị địch phát hiện, gia đình ông chắc chắn sẽ bị tra tấn, tù đày, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.
-Chị Trần Thị Mới mưu trí bảo vệ cán bộ cách mạng. Một lần đồng chí Nguyễn Hữu Ngoan vào ấp chiến lược nắm tình hình thì gặp phải bọn địch đi ruồng bố. Đồng chí giả làm chủ rạch lừa được 2 tốp lính đi đầu nhưng khó thoát khỏi bọn ác ôn đang đi sau. Trước tình thế nguy ngập đó, chị Trần Thị Mới đã gọi đồng chí Nguyễn Hữu Ngoan vào nhà, cho đồng chí lên nằm ở giường ngủ của mình, đắp mền lại và nhận rằng đồng chí là chồng mình đang bị bệnh nặng. Nhờ thế, đồng chí Nguyễn Hữu Ngoan mới thoát khỏi nanh vuốt của bọn ác ôn.
-Ông Mười Thời lợi dụng bọn lính Mỹ say rượu đã tìm cách tiếp cận để lấy đạn, lựu đạn cất dấu và chuyển cho cách mạng đánh địch.
Nhìn chung, trong giai đoạn 1968-1969, mặc dù bị khủng bố, đàn áp, kìm kẹp, nhân dân Thái Bình Trung vẫn hướng về cách mạng, hết lòng giúp đỡ, chở che, đùm bọc cán bộ, đảng viên. Được sự lãnh đạo của quần chúng, đồng bào đã nhiều lần phá rào ấp chiến lược vào ban đêm, đấu tranh đòi trở về ruộng vườn để lao động sản xuất. Bọn địch thường bực tức mắng chửi đồng bào là :”Ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”.
Trong giai đoạn 1970-1971, địch củng cố hệ thống kìm kẹp, tăng cường lực lượng trú đóng ở 2 đồn: Trung Môn và Long Khốt. Ở các ấp chiến lược trong xã, địch sử dụng lực lượng cảnh sát, bảo an, phòng vệ dân sự canh giữ suốt ngày để kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của nhân dân. Từ năm 1970, bí thư chi bộ Thái Bình Trung là đồng chí Nguyễn Văn Đổng. Nhiệm vụ của chi bộ lúc bấy giờ là phối hợp với bộ đội, du kích củng cố và mở rộng vùng giải phóng. Đầu năm 1970, Bộ chỉ huy Miền điều Trung đoàn 88 xuống tăng cường cho Khu 8. Vừa đến Kiến Tường, Trung đoàn 88 đã phối hợp với bộ đội địa phương Vùng 8 và du kích Thái Bình Trung tấn công chi khu Long Khốt. Tuy không dứt điểm được mục tiêu, nhưng trận đánh đã gây cho địch nhiều thiệt hại và hỗ trợ cho lực lượng vũ trang cùng nhân dân địa phương đánh phá kế hoạch Bình định cấp tốc của địch. Nhân cơ hội ấy, lực lượng cách mạng Thái Bình Trung đã phát động nhân dân vùng lên đấu tranh phá lỏng các ấp chiến lược trong xã. Đến cuối năm 1971, ta xây dựng được căn cứ lõm trong xã, hình thành thế cài răng lược với địch.
Lúc bấy giờ, trên chiến trường Nam Bộ, quân và dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi về quân sự. Cuối năm 1971, quân ngụy đại bại ở Lào và Cam-pu-chia. Chớp lấy thời cơ này, Trung ương và Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc tấn công chiến lược trên toàn miền Nam với mục tiêu:”Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, đánh bại chương trình bình định, thu hẹp vùng kiểm soát của địch, giành thắng lợi có ý nghĩa trên chiến trường, tạo thế cho ta giành thắng lợi ở hội nghị Pa-ri”.
Theo chỉ đạo của cấp tỉnh ủy Kiến Tường và Ban cán sự Vùng 8, nhiệm vụ của Thái Bình Trung trong chiến dịch tấn công tổng hợp năm 1972 là phối hợp với bộ đội vây ép chi khu Long Khốt, yếu khu Măng Đa và các đồn bót trong xã.
Trong chiến dịch tấn công tổng hợp, đêm 24-4-1972, lực lượng cách mạng xã Thái Bình Trung đã phối hợp với Trung đoàn 88 và bộ đội Vùng 8 tấn công chi khu Long Khốt. Lực lượng địch ở đây rất mạnh gồm: 1 tiểu đoàn bảo an và địa phương quân, 1 đại đội cảnh sát dã chiến cùng cảnh sát áo trắng, cán bộ bình định. Cách bố phòng của địch xung quanh chi khu rất nghiêm ngặt, gồm 9 lớp rào kẽm gai và 1 bãi mìn. Ngoài ra, chi khu Long Khốt còn được 11 khẩu pháo 105 từ Măng Đa sẵn sàng yểm trợ. Trước khi xảy ra trận đánh, ta đã xây dựng phương án, tiến hành rải truyền đơn và tuyên truyền vận động quần chúng vùng lên đấu tranh phối hợp.
Mở đầu trận đánh, lực lượng ta từ 3 mặt tấn công vào chi khu. Chiến sự diễn ra ác liệt suốt 2 ngày đêm. Bọn địch yếu thế phải bỏ chạy về Măng Đa, chỉ để lại 1 đại đội cầm cự với ta. Hôm sau, địch điều Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 lên giải vây chi khu Long Khốt. Trước tình thế đó, ta rút lui để bảo toàn lực lượng.
Trong đợt hai của chiến dịch tấn công tổng hợp, ta tiếp tục tấn công chi khu Long Khốt và các đồn bót trong xã Thái Bình Trung. Đêm 9 rạng 10 tháng 6-1972, du kích Thái Bình Trung phối hợp bộ đội Sư đoàn 5 đánh thiệt hại nặng chi khu Long Khốt và tiêu diệt đồn Kèo Giá. Đồn Trung Môn và đồn Đống Đa cũng bị ta bao vây. Trước sức ép của ta, bọn địch ở hai đồn này phải bỏ chạy về đồn lớn ở chi khu Long Khốt, lực lượng tề điệp, phòng vệ dân sự của địch tan rã hoặc tê liệt. Nhân cơ hội này, ta phát động quần chúng nổi đậy đấu tranh bung ra khỏi ấp chiến luợc, trở về nhà cũ. Trước khí thế của quần chúng, tên trưởng đồn Long Khốt đã chán nản nói: “Bà con muốn đi đâu cứ đi, chúng tôi lo bảo vệ chúng tôi không biết có được không”.
Nhìn chung, trong chiến dịch tiến công tổng hợp năm 1972, tuy ta chưa đạt được mục đích tiêu diệt chi khu Long Khốt nhưng đã bức rút các đồn trong xã, làm tê liệt bọn tề điệp, phá rã các ấp chiến lược, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy phá thế kìm kẹp, trở về nhà cũ. Với thành tích này, quân và dân Thái Bình Trung đã góp phần vào thắng lợi chung của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam.
5. Đấu tranh chống địch vi phạm Hiệp định Pari, tạo thế, tạo lực chuẩn bị tham gia cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1973-1975)
Sau những thất bại nặng nề về quân sự trong năm 1972 ở chiến trường Việt Nam, Mỹ-ngụy buộc phải thỏa thuận về một Hiệp định lập lại hòa bình ở Việt Nam tại Hội nghị Pa-ri và chính thức ký kết Hiệp định vào ngày 27-1-1973. Nội dung chính của Hiệp định là: hai bên ngừng bắn, giữ nguyên hiện trạng vùng kiểm soát của mỗi bên; miền Nam tồn tại hai chính quyền, hai quân đội; Mỹ phải rút quân và chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Việt Nam. Hiệp định Pa-ri là kết quả của những thắng lợi quan trọng về quân sự và chính trị trên chiến trường nhưng vẫn chưa trọn vẹn, muốn đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi hoàn toàn, nhân dân cả nước cần tiếp tục đấu tranh, “đánh cho Mỹ cút. Đánh cho ngụy nhào” như lời dạy của Hồ Chủ tịch. Về phía địch, ngụy quyền đã công khai phản bội Hiệp định bằng khẩu hiệu “bốn không” (không hòa bình, không ngừng bắn, không có giải pháp chính trị, không có tổng tuyển cử) và xây dựng kế hoạch Hùng Vương với nội dung chính là: chủ động tấn công trước và sau Hiệp định, đẩy mạnh càn quét, bình định, giành chủ động trên khắp lãnh thổ, ngăn không cho Cộng sản lấn chiếm, gia tăng hoạt động “Phượng Hoàng” để phát hiện và tận diệt cơ sở hạ tầng của Cộng sản. Thi hành kế hoạch này, bọn ngụy tại Thuận Thành đã cắm cờ bừa bãi, vẽ cờ ba que lên nóc nhà, hàng rào của dân để chứng minh khu vực đó là vùng do chúng kiểm soát. Những tên tay sai ác ôn luôn luôn lùng sục, nghe ngóng, rình rập đồng bào. Hễ ai nhắc đến Hiệp định Pa-ri, đến hòa bình, thống nhất là chúng ra tay đánh đập, khủng bố dã man.
Về phía ta, để chuẩn bị cho việc thi hành Hiệp định Pari, Trung ương Cục đã chỉ đạo các tỉnh phải tập trung lực lượng đón thời cơ chiến lược trước khi Hiệp định được ký kết. Các địa phương được giao nhiệm vụ giành đất giành dân càng nhiều càng tốt trước khi Hiệp định có hiệu lực. Việc xác định vùng kiểm soát của mỗi bên căn cứ vào vị trí cắm cờ. Vì vậy, mỗi địa phương phải dàn mỏng lực lượng, cắm cờ trên phạm vi càng rộng càng tốt trong đêm trước của Hiệp định để mở rộng và xác định vùng kiểm soát của cách mạng.
Để thực hiện kế hoạch “Thời cơ”, đêm 27-1-1973, bộ đội tỉnh, bộ đội vùng, du kích xã và các đội công tác chính trị của tỉnh Kiến Tường đồng loạt bung ra cắm cờ theo địa bàn được phân công. Tại Thái Bình Trung, lực lượng cách mạng cũng tỏa ra làm công tác cắm cờ, ngay cả những địa điểm gần vùng địch kiểm soát. Tiếp sau đó, du kích Thái Bình Trung liên tục phối hợp với bộ đội Sư đoàn 8 đánh địch vi phạm Hiệp định, giữ vững vùng giải phóng. Đầu năm 1974, du kích Thái Bình Trung phối hợp với bộ đội đánh đồn Trung Môn. Mặc dù địch huy động lực lượng viện trợ hùng hậu có cả xe tăng, máy bay nhưng vẫn phải khuất phục trước sức tấn công mạnh mẽ của ta. Kết thúc trận đánh, ta diệt và làm bị thương khoảng 100 tên địch, bắn rơi 1 máy bay phản lực, 3 máy bay trực thăng, bắn cháy 1 xe tăng, thu nhiều chiến lợi phẩm. Sau trận này, địch phải bỏ đồn đem dân và bộ máy tề chạy về Long Khốt. Ta giải phóng 90% xã, địch chỉ giữ được đồn Long Khốt.
Cuối năm 1974, Bộ chính trị Trung ương Đảng đã phân tích, đánh giá tình tình, xác định thời cơ chiến lược và quyết tâm giải phóng miền Nam trong vòng 2 năm 1975-1976. Đầu năm 1975, quân giải phóng đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Long trong khi ngụy quân bất lực không thể tái chiếm. Sau sự kiện này, Trung ương càng quyết tâm giải phóng miền Nam và tiến hành thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế-Đà Nẵng, đẩy ngụy quyền vào bước đường cùng. Tháng 2-1975, tỉnh ủy Kiến Tường họp hội nghị mở rộng để quán triệt chỉ đạo của cấp trên về tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam. Tỉnh ủy đã tăng cường sự lãnh đạo đối với cơ sở bằng cách điều cán bộ xuống các xã. Trong đợt này, 5 cán bộ được điều về tăng cường cho Thái Bình Trung để cùng với chi bộ xã lãnh đạo công tác giải phóng chi khu Long Khốt. Đêm 29-4-1975, lực lượng cách mạng xã Thái Bình Trung phối hợp với bộ đội đánh chiếm chi khu Long Khốt, giải phóng hoàn toàn xã nhà.
Sau 21 năm kiên trì, bền bĩ đấu tranh quyết liệt với kẻ thù, chi bộ, quân và dân Thái Bình Trung đã cùng dân tộc hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong suốt thời gian ấy, nhất là giai đoạn 1963-1975- khi địch lập chi khu Long Khốt, Thái Bình Trung là nơi tập trung lực lượng ngụy quân, ngụy quyền dày đặc. Lúc nào ở Thái Bình Trung cũng có trên 1 tiểu đoàn địch, có lúc lên đến cả trung đoàn gồm: biệt kích, bảo an, địa phương quân, dân vệ, cảnh sát, bình định…Trên địa bàn xã có đến 3 đồn địch với lực lượng trú đóng rất mạnh. Nhân dân nơi đây bị chúng kềm kẹp, khống chế, theo dõi chặt chẽ bằng lực lượng quân sự cùng hệ thống ấp chiến lược và đồn bót. Vì vậy mà phong trào cách mạng ở Thái Bình Trung gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, không vì vậy mà chi bộ, quân và dân Thái Bình Trung khuất phục trước kẻ thù. Lực lượng cán bộ, đảng viên, du kích xã lúc nào cũng kiên cường bám đất, bám dân để gầy dựng và phát triển phong trào cách mạng. Nhân dân Thái Bình Trung lúc nào cũng một lòng một dạ với Đảng, không quản hiểm nguy, gian khổ, hết lòng hết sức ủng hộ, chở che, đùm bọc lực lượng cách mạng cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn.
CHƯƠNG BỐN
BA MƯƠI NĂM XÂY DỰNG-BẢO VỆ QUÊ HƯƠNG
I.MƯỜI NĂM SAU NGÀY GIẢI PHÓNG (1975-1985)
1.Tiếp quản chính quyền, xây dựng chi bộ đảng và chính quyền cách mạng:
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân Thái Bình Trung nói riêng cuối cùng đã kết thúc thắng lợi. Chiến thắng vĩ đại ngày 30-4-1975 đã mở ra một chương mới trong lịch sử của dân tộc Việt Nam: từ đây đất nước thống nhất, đồng bào Nam-Bắc được sum họp một nhà. Trong niềm hân hoan chung của dân tộc, nhân dân Thái Bình Trung hết sức phấn khởi, tự hào với thắng lợi vĩ đại của công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi người nhanh chóng bắt tay vào công cuộc xây dựng lại quê hương dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, 30 chiến tranh khốc liệt đã làm cho xã Thái Bình Trung bị tàn phá dữ dội. Ruộng vườn tan nát, môi trường sinh thái bị hủy diệt nghiêm trọng vì bom đạn, chất độc hóa học của Mỹ-ngụy. Chiến tranh cũng đã phá hỏng gần như toàn bộ cơ sở hạ tầng ở xã. Là 1 xã thuộc vùng biên giới, địa hình bị sông rạch chia cắt nên hết sức khó khăn về giao thông. Đường bộ bị chiến tranh phá hủy, do thiếu hệ thống kinh đào nên các ấp trong xã cũng không thể giao thông với nhau bằng đường thủy. Khó khăn về giao thông đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sản xuất của nhân dân. Về trình độ học vấn, do ảnh hưởng của chiến tranh nên nhân dân trong xã hầu hết bị mù chữ. Số lượng đảng viên còn lại sau chiến tranh không nhiều, trình độ học vấn còn thấp, lại không có kinh nghiệm về quản lý xã hội nên gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi tiếp quản chính quyền. Đây là những khó khăn chủ yếu mà chi bộ, chính quyền và nhân dân xã Thái Bình Trung cần phải nỗ lực khắc phục. Bên cạnh những khó khăn trên, Thái Bình Trung có những thuận lợi hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại quê hương. Một là, chi bộ, chính quyền và nhân dân Thái Bình Trung được lãnh đạo bởi đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là huyện ủy Mộc Hóa (từ tháng 3-1978 là huyện ủy Vĩnh Hưng). Hai là, nhân dân Thái Bình Trung có truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất trong chiến đấu bảo vệ quê hương, đã từng trải qua gian khổ, hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Vì thế, nhân dân Thái Bình Trung không ngại gian khổ khó khăn trước mắt mà hết lòng hết sức ủng hộ Đảng, ủng hộ chính quyền cách mạng, đồng thời tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng lại quê hương sau chiến tranh. Ba là, chi bộ xã Thái Bình Trung từng trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, có nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn hết sức ác liệt của chiến tranh, vì thế, tập thể đảng viên và cấp ủy xã có đủ bản lĩnh để đoàn kết nhân dân trong xã thành một khối thống nhất để vượt qua mọi gian lao, thử thách.
Trước thực trạng ấy, đòi hỏi chính quyền mới phải được xây dựng, củng cố vững mạnh để ổn định đời sống nhân dân, xóa bỏ tàn dư của chế độ cũ và nhanh chóng khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội.
Sau ngày giải phóng, tiếp quản chính quyền, xã Thái Bình Trung có 3 đảng viên. Đồng chí Nguyễn Văn Đổng (Bảy Đổng) được huyện ủy Vĩnh Hưng chỉ định giữ chức vụ Bí thư chi bộ, đồng chí Nguyễn Văn Trọng (Chín Trọng) là Chủ tịch Ủy ban quân quản. Do khó khăn về cơ sở vật chất, Ủy ban quân quản tạm sử dụng trụ sở của ngụy quyền xã trước đây làm văn phòng làm việc. Chính quyền cách mạng còn được xây dựng ở các ấp trong xã với tên gọi là Ban Nhân dân ấp.
Cuối năm 1975, chế độ chính quyền quân quản chấm dứt vai trò lịch sử, thay vào đó là Ủy ban nhân dân cách mạng ở huyện và các xã. Trong tình hình chung ấy, Ủy ban nhân dân cách mạng xã Thái Bình Trung được thành lập do đồng chí Đặng Thành Chung làm Chủ tịch kiêm Bí thư chi bộ.
2.Chiến đấu chống bọn Pônpốt-Iêngxary xâm lược trong chiến tranh biên giời Tây Nam
Trong lúc công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng lại quê hương của nhân dân Thái Bình Trung đang diễn ra khẩn trương thì bọn Pônpốt Iêng Xary được sự giật dây của các thế lực phản động quốc tế đã gây ra cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam.
Ngày 30-4-1977, tập đoàn phản động Pôn Pốt -Iêng Xa Ry cầm quyền ở Campuchia đưa quân tấn công vào lãnh thổ nước ta theo hai hướng: Tây Ninh và An Giang. Tỉnh Long An với 137,5 km đường biên giới giáp ranh với Campuchia cũng chính là một trong những địa bàn đối mặt trực diện với cuộc chiến này. Trước tình hình đó, nhiệm vụ của cả tỉnh lại có sự thay đổi: nhiệm vụ chiến tranh bảo vệ biên giới trở thành nhiệm vụ hàng đầu, tuy nhiên vẫn bám chặt các mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội. Thường vụ Tỉnh uỷ Long An đã tập trung chỉ đạo các đơn vị vũ trang củng cố, kiện toàn lực lượng, sẵn sàng làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
Nằm ở tuyến đầu biên giới nên Thái Bình Trung là một trong những nơi chịu ảnh hưởng sớm nhất của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Tỉnh ủy xác định xã Thái Bình Trung với đồn Long Khốt là một trong những vị trí then chốt và trọng yếu nhất ở khu vực biên giới vì nếu mất Long Khốt thì thị trấn Mộc Hóa và gò Măng-Đa (nay là thị trấn Vĩnh Hưng) lập tức bị uy hiếp. Vì vậy, Tỉnh ủy và Tỉnh đội hạ quyết tâm phải giữ vững đồn Long Khốt bằng mọi giá. Tỉnh đội đã điều động lực lượng tăng cường cho đồn Long Khốt. Quân-dân xã Thái Bình Trung, Thái Trị và các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng cấp trên giữ vững biên giới. Thực hiện nhiệm vụ trên, chi bộ đã họp với Ban chỉ huy xã đội và lực lượng du kích, xác định tinh thần quyết tử để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc. Xã đội đã củng cố, phát triển lực lượng du kích lên phương án chiến đấu, đồng thời phối hợp với bộ đội xây dựng tuyến phòng thủ dọc biên giới. Chi bộ cùng chính quyền chuẩn bị kế hoạch di tản nhân dân, thóc lúa, trâu bò khi cần thiết. Từ giai đoạn này, nhiệm vụ của xã Thái Bình Trung hết sức nặng nề: vừa nỗ lực sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ, tính mạng và tài sản của nhân dân.
Ngày 14-1-1978, địch bắt đầu tấn công đồn Long Khốt. Đồn này có phiên hiệu là 773 thuộc Công an nhân dân vũ trang, đóng tại ấp Trung Chánh, xã Thái Bình Trung, cách biên giới khoảng 700m. Nằm trên nền căn cứ Long Khốt của địch trước 1975, đồn phụ trách 20km đường biên giới thuộc 3 xã: Thái Bình Trung, Thái Trị, Tuyên Bình. Trú đóng trong đồn có 60 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Hoàng Văn Ky làm Chỉ huy trưởng, đồng Hoàng Văn Thi làm Chính trị viên. Suốt 43 ngày đêm (14-01-1978 đến 27-02-1978) bọn phản động PônPốt-Iêng Xary đã huy động lực lượng lớn (có lúc lên đến cấp trung đoàn) bao vây đồn Long Khốt, tập trung hỏa lực (cối 82mm,105mm,DKZ) mở nhiều đợt tấn công, đột kích, hòng tiêu diệt vị trí tiền tiêu quan trọng này, âm mưu lấn sâu vào nội địa làm bàn đạp cô lập khu vực Mộc Hóa và gò Măng Đa.
Trong tương quan lực lượng địch hơn ta gấp nhiều lần, đồn phải chịu hàng ngàn quả đạn pháo, hàng chục đợt tập kích của địch, bị bao vây, cô lập, thiếu lương thực, nước uống, thuốc men, tử sĩ phải chôn cất trong đồn, thương binh phải điều trị tại chỗ…, nhưng cán bộ, chiến sĩ đồn Long Khốt vẫn kiên cường, vững chắc trên từng vị trí của mình, chiến đấu dũng cảm quyết bảo vệ từng tấc đất thân yêu của Tổ Quốc.
Qua 43 ngày đêm chiến đấu, các chiến sĩ đồn Long Khốt đã bẽ gảy 21 đợt tấn công của địch, tổ chức chiến đấu 28 trận, tiêu diệt tại chỗ 55 tên, bắn bị thương nhiều tên khác, thu nhiều chiến lợi phẩm…, bảo vệ cuộc sống của hàng vạn đồng bào, bảo vệ thành quả của Đảng bộ và nhân dân các huyện biên giới.
Chiến công trên của cán bộ, chiến sĩ đồn Long Khốt đã tô thắm truyền thống vẻ vang của bộ đội biên phòng Long An, góp phần vào thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của tỉnh, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày 22-12-1979 đồn Long Khốt được Nhà nước phong tặng danh hiệu ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN. Chủ tịch Tôn Đức Thắng tặng lẵng hoa cho đồn và 57 huân chương chiến công cho tập thể và cá nhân cùng nhiều bằng khen.
Như vậy, trong chiến tranh biên giới Tây Nam, đội du kích xã Thái Bình Trung đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phối hợp cùng bộ đội bảo vệ biên giới, bảo vệ nhân dân. Tháng 3-1978, du kích xã đã cùng bộ đội và công an biên phòng giải vây đồn Long Khốt. Tháng 5-1978, du kích xã đã cùng bộ đội hoàn thành nhiệm vụ đẩy lùi địch, giữ địa bàn, tạo điều kiện cho lực lượng ta phản công. Đội du kích còn cùng nhân dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đắp tuyến đê phòng thủ biên giới dài 27km. Trong thành tích giữ vững đồn Long Khốt, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc, đội du kích xã Thái Bình Trung đã góp phần quan trọng.
Về cá nhân, nổi bật vai trò của Xã đội trưởng Nguyễn Văn Phong và Xã đội phó Nguyễn Văn Luyện. Đồng chí Phong đã chỉ huy đội du kích lập nhiều chiến công xuất sắc. Tiêu biểu là trận đồng chí cùng 7 du kích chặn đánh 9 tên địch, diệt tại trận 2 tên, thu 1 súng B40 và 1 súng AK. Trong những trận đánh phối hợp với công an vũ trang đồn Long Khốt và bộ đội, đồng chí luôn là người chỉ huy gan dạ, dũng cảm, mưu trí. Xã đội phó Nguyễn Văn Luyện đã hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ địa điểm ăn ở cho lực lượng chuẩn bị phản công và hy sinh lúc đang làm nhiệm vụ khi tuổi đời vừa tròn 26. Gia đình ông Trần Văn Duyên cũng có những đóng góp nổi bật trong chiến tranh biên giới. Bốn người con của ông đều tham gia du kích, trong đó có Xã đội trưởng Nguyễn Văn Phong và Xã đội phó Nguyễn Văn Luyện. Ông Nguyễn Văn Duyên cũng tích cực bảo vệ vũ khí, tải đạn và sát cánh chiến đấu cùng du kích khi cần thiết.
Bên cạnh hoạt động quân sự của đội du kích, chính quyền, đoàn thể và nhân dân Thái Bình Trung vẫn hoạt động bình thường trong điều kiện chiến tranh. Từ tháng 3-1978, chính quyền xã đã tổ chức cho nhân dân di tản ra Vĩnh Thạnh. Ủy ban xã cũng được dời ra Vĩnh Thạnh để tiến hành ổn định đời sống nhân dân và vận động phục vụ chiến đấu.
Tháng 12-1978, lũ lụt chấm dứt, thời kỳ đầu của chiến tranh biên giới Tây Nam cũng kết thúc. Đầu năm 1979, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị về mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn biên giới Tây Nam nhằm tiêu diệt đạo quân xâm lược của tập đoàn Pôn pốt- Yêng Xary bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, các lực lượng vũ trang của Mộc Hoá trong đó có du kích Thái Bình Trung phối hợp với chủ lực quân đoàn 4 nhận nhiệm vụ hành quân tấn công từ phía nam của tỉnh Svây Riêng. Kết quả sau 7 ngày đêm chiến đấu, ngày 7-1-1979, lực lượng vũ trang của Long An đã giải phóng được tỉnh Svây Riêng. Sau đó, quân ta giúp tỉnh Svây Riêng truy quét tàn quân Khơ Me đỏ bảo vệ thành quả cách mạng từng bước ổn định cuộc sống. Nói chung, trong chiến tranh biên giới Tây Nam, quân và dân Thái Bình Trung đã kiên cường, dũng cảm cùng nhân dân toàn tỉnh đứng lên để đánh đuổi kẻ thù. Đến tháng 2/1979 cuộc chiến kết thúc, Thái Bình Trung đã góp phần cùng cả tỉnh giữ vững toàn tuyến biên giới và hoàn thành nghĩa vụ quốc tế với nước bạn Campuchia.
3.Khắc phục hậu quả chiến tranh, bước đầu khôi phục sản xuất, phát triển văn hóa xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng (1979-1986)
Bị tàn phá bởi cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm và chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra ngay sau đó nên xã Thái Bình Trung bị tàn phá rất nặng nề. Vì thế, ngay sau khi kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đặt ra cho cấp ủy, chính quyền xã Thái Bình Trung là khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, bước đầu khôi phục sản xuất. Cấp ủy, chính quyền xã đã nhanh chóng đưa dân về đất cũ, xây cất, sửa chữa nhà cửa, thực hiện những chính sách cứu trợ để giúp nhân dân ổn định đời sống. Trước nguy cơ bom mìn thời chống Mỹ còn sót lại và bom mìn do bọn Pôn Pốt-Iêng xary gài trên mảnh đất Thái Bình Trung dày đặc, hàng ngày đe dọa đến tính mạng của nhân dân, ảnh hưởng lớn đến việc khai hoang, phục hóa, phục hồi sản xuất nông nghiệp, cấp ủy, chính quyền xã đã phát động phong trào nhân dân thi đua tham gia tháo gỡ bom mìn, giải phóng đất sản xuất. Hưởng ứng phong trào này, nhân dân Thái Bình Trung đã hăng hái lập thành tích tháo gỡ bom mìn, giải phóng 1320 ha đất sản xuất.
Sau khi hoàn thành công tác ổn định đời sống nhân dân, tháo gỡ bom mìn, chi bộ, chính quyền và nhân dân Thái Bình Trung đã nỗ lực khôi phục sản xuất, phát triển văn hóa-xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng với những thành tựu cơ bản sau:
-Về công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền:
Từ một chi bộ chỉ có 3 đảng viên sau ngày giải phóng, trên tinh thần mạnh dạn phát triển đội ngũ kế thừa, đến năm 1981, chi bộ đã phát triển lên 8 đảng viên (6 chính thức, 2 dự bị) trong đó có 4 đảng viên nữ và 5 đồng chí còn trong tuổi đoàn. Chi bộ Thái Bình Trung đạt danh hiệu vững mạnh nhiều năm và được Tỉnh ủy tặng cờ “Chi bộ vững mạnh” vào năm 1981.
Bộ máy chính quyền xã cũng dần dần được kiện toàn. Hội đồng nhân dân xã được nhân dân bầu gồm 20 đại biểu, trong đó có 4 đại biểu là nữ. Ủy ban nhân dân xã gồm có 7 ủy viên gồm: Chủ tịch, Phó chủ tịch, Ủy viên thư ký và 4 ủy viên phụ trách các ngành.
Các đoàn thể như Thanh niên, Phụ nữ cũng được thành lập và là thành viên của Mặt trận tổ quốc xã.
Nhìn chung hệ thống chính trị của xã từng bước được củng cố, kiện toàn, phát triển, đủ năng lực lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng quê hương.
-Trên lĩnh vực kinh tế nông nghiệp:
Cấp ủy, chính quyền xã xác định nông nghiệp là lĩnh vực mà địa phương có nhiều tiềm năng nên đã tăng cường lãnh đạo nhân dân tiến hành khai hoang phục hóa, thực hiện thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất cây trồng. Đến năm 1986, xã đã hoàn thành công tác tháo dỡ bom mìn, khai hoang, phục hóa, tăng diện tích sản xuất. Toàn xã có khoảng 1400 ha, chủ yếu là sản xuất lúa, năng suất bình quân khoảng 1,5 tấn/ha. Về chăn nuôi, cấp ủy, chính quyền xã khuyến khích nhân dân phát triển đàn gia súc, gia cầm để giải quyết nhu cầu thực phẩm và nâng cao thu nhập cho hộ gia đình. Đến năm 1985, đàn gia súc của xã có khoảng 1500 con, đàn gia cầm khoảng 10.000 con.
Về thủy lợi, xã đã huy động nhân dân nạo vét một số kinh mương để phục vụ sản xuất. Những công trình này đã phát huy tác dụng tích cực trong việc thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất cây trồng ở Thái Bình Trung.
Về công tác cải tạo nông nghiệp, từ năm 1978, thực hiện chủ trương của Trung ương về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, tỉnh ủy Long An đã chỉ đạo các địa phương trong tỉnh thực hiện việc xóa bỏ tàn dư phong kiến chiếm hữu ruộng đất và bóc lột địa tô, đồng thời xây dựng các tổ, đội đoàn kết sản xuất để hướng nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Tuy nhiên do chiến tranh biên giới xảy ra nên các xã biên giới nói chung và Thái Bình Trung nói riêng thực hiện công tác cải tạo nông nghiệp muộn hơn so với các địa phương khác trong tỉnh. Đến năm 1980, Thái Bình Trung mới thực hiện công tác cải tạo nông nghiệp theo chỉ đạo của tỉnh ủy Long An và huyện ủy Vĩnh Hưng.
Công tác cải tạo nông nhiệp mà trọng tâm là xây dựng các đội đoàn kết sản xuất và tập đoàn sản xuất điểm có ý nghĩa về kinh tế-chính trị-xã hội hết sức quan trọng, vì thế, cấp ủy, chính quyền xã đã tập trung lực lượng làm công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp bằng cách đưa đất đai, tư liệu sản xuất tham gia xây dựng tập đoàn sản xuất. Trong quá trình vận động và tổ chức xây dựng mô hình tập đoàn sản xuất, xã Thái Bình Trung đã được sự ủng hộ của đa số nhân dân. Tuy nhiên, công tác cải tạo nông nghiệp đã đụng chạm đến quyền tư hữu về ruộng đất và tư liệu sản xuất của nông dân nên còn có một số hộ chưa thông hiểu và có hành vi chống đối.Tuy nhiên, nhờ kiên trì vận động thuyết phục, đi đôi với biện pháp hành chính, đến đầu năm 1981, xã đã hoàn thành công tác điều chỉnh đất đai, xây dựng 8 tập đoàn sản xuất và 1 đội đoàn kết sản xuất. 100% số hộ nông dân ở Thái Bình Trung đều vào làm ăn tập thể.
Qua một năm nỗ lực xây dựng tập đoàn sản xuất, công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực nông nghiệp ở Thái Bình Trung đã đạt được thắng lợi bước đầu. Nhân dân đã được làm quen với phương thức làm ăn tập thể, biết ứng dụng một số tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Qua công tác này, cán bộ, đảng viên xã Thái Bình Trung đã xây dựng cho mình lập trường tư tưởng vững vàng, có tinh thần trách nhiệm cao, luôn gương mẫu đi đầu trong việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Với thực tiễn này, bộ máy đảng, chính quyền, đoàn thể ở xã được rèn luyện, thử thách và trưởng thành.
Tuy nhiên, quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực nông nghiệp ở Thái Bình Trung đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Điều kiện kinh tế-xã hội và lực lượng sản xuất của xã chưa phù hợp với quan hệ sản xuất mới. Trình độ các cán bộ quản lý ở các tập đoàn sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu của phương thức sản xuất tập thể. Hình thức tập đoàn sản xuất được xây dựng 1 cách nôn nóng, gò ép, nặng về hình thức, chưa được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân nên không đạt hiệu quả cao trong lao động sản xuất. Những hạn chế trên đã kìm hãm sản xuất, làm cho kinh tế nông nghiệp ở Thái Bình Trung chậm phát triển, đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đây là thực trạng chung của cả tỉnh nói riêng và cả nước nói chung, được phát sinh từ những bất cập của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp lúc bấy giờ. Thực tiễn này đã đặt ra một yêu cầu bức thiết là muốn phát triển đất nước một cách ổn định và bền vững, cần phải tiến hành đổi mới.
Bên cạnh công tác hợp tác hóa nông nghiệp, xã Thái Bình Trung còn tập trung thực hiện việc xây dựng hợp tác xã mua bán theo chủ trương của cấp trên.
Hợp tác xã mua bán được thành lập từ năm 1980, do đồng chí Nguyễn Thị Biện làm chủ nhiệm. Ban đầu hợp tác xã mua bán còn thiếu thốn về nguồn vốn và cơ sở vật chất. Để khắc phục tình trạng thiếu vốn, hợp tác xã phải vay ngân hàng và vận động nhân dân tham gia góp vốn. Từ năm 1980 đến năm 1985, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế bao cấp nên các mặt hàng thiết yếu như: dầu, đường, bột ngọt, vải vóc đều được phân phối theo tiêu chuẩn. Hợp tác xã mua bán đã đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối này. Hàng tháng, hợp tác xã nhận hàng từ công ty cấp III của huyện về và phân phối đến tận hộ dân thông qua mạng lưới của mình. Ngoài ra, hợp tác xã còn thu mua hàng nông sản của nhân dân như lúa, gia súc, gia cầm …để giao cho huyện và phân phối thêm cho người tiêu dùng.
-Trên lĩnh vực văn hóa-xã hội:
Về giáo dục, sau chiến tranh biên giới Tây Nam, để phục vụ nhu cầu học tập cho con em trong xã, cấp ủy, chính quyền Thái Bình Trung đã huy động 500 ngày công và 5000đ để xây dựng 6 phòng học từ lớp 1 đến lớp 6 và 3 lớp mẫu giáo. Đến năm 1986, tổng số học sinh phổ thông của xã khoảng 400 em.
Về y tế, xã đã xây dựng trạm y tế với 5 cán bộ chuyên trách thực hiện việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Công tác tiêm phòng bệnh dịch cũng như khám bệnh, cấp thuốc được trạm y tế thực hiện tốt.
Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao từng bước được xây dựng, phát triển, bước đầu đáp ứng công tác tuyên truyền, giáo dục chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân.
Các chính sách xã hội được thực hiện tốt, đặc biệt là việc chăm sóc đối với gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Ngoài việc quy tập hài cốt liệt sĩ, lập hồ sơ đề nghị về trên khen thưởng cho các gia đình chính sách, hợp tác xã và các tập đoàn sản xuất còn tổ chức đưa những gia đình này về xã dự họp mặt nhân kỷ niệm ngày Thương binh liệt sĩ hàng năm. Phong trào gia đình cách mạng gương mẫu, người công dân kiểu mẫu do Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể của xã phát động đã được những gia đình chính sách tích cực tham gia. Qua phong trào này, những gia đình chính sách ở xã đã nêu nhiều tấm gương điển hình, gương mẫu đi đầu, làm nòng cốt trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
-Về an ninh-quốc phòng:
Cấp ủy, chính quyền xã hết sức chú trọng công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là công tác giữ gìn toàn vẹn chủ quyền an ninh biên giới, đảm bảo sự bình yên cho nhân dân.
Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc phát triển mạnh. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định. Từ năm 1980, xã đã thành lập được 21 tổ an ninh nhân dân với 93 tổ viên, 100% số hộ trong xã đăng ký giữ vững an ninh và bảo vệ tổ quốc. Công tác quân sự địa phương cũng được chi bộ, chính quyền xã tập trung lãnh đạo tốt. Xã xây dựng được 1 đại đội dân quân tự vệ sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xảy ra. Hàng năm, xã Thái Bình Trung đều hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân do cấp trên giao. Đa số thanh niên trúng tuyển nghĩa vụ quân sự đều kế thừa và phát huy tốt truyền thống anh hùng trong chiến đấu bảo vệ tổ quốc của cha ông.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, trong khi các địa phương trong tỉnh đang ra sức xây dựng lại quê hương thì Thái Bình Trung phải đối mặt với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Dù phải trải qua muôn trùng khó khăn, thử thách nhưng với tinh thần đoàn kết, tự lực cánh sinh, chi bộ, chính quyền xã Thái Bình Trung đã lãnh đạo quân-dân trong xã dũng cảm chiến đấu với kẻ thù, bảo vệ nguyên vẹn từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc. Sau khi kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam, chi bộ, chính quyền xã đã lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng. Sản xuất nông nghiệp được phục hồi và bước đầu phát triển với sự gia tăng về diện tích sản xuất, năng suất, sản lượng lương thực. Công tác cải tạo nông nghiệp tiến hành thuận lợi, đạt chỉ tiêu trên giao. Đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Lĩnh vực văn hóa-xã hội có nhiều tiến bộ, nhất là giáo dục và y tế. Đây là tiền đề quan trọng để Thái Bình Trung vươn lên thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
II. HAI MƯƠI NĂM THỰC HIỆN SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI (1986-2005)
1.Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh-quốc phòng trong 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1995)
a-Ổn định tình hình kinh tế-xã hội trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1990)
Trong 10 năm xây dựng và bảo vệ tổ quốc từ khi nước nhà thống nhất (1975-1985), Đảng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế-xã hội-an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, đất nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn, nhất là về kinh tế. Từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, các yếu tố của nền kinh tế thị trường đã bắt đầu xuất hiện trong đời sống kinh tế của nước ta. Trong khi đó, mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm và không còn phù hợp với thực tế của đất nước. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải thực hiện đường lối đổi mới để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986)-cả nước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện mà đầu tiên là đổi mới về kinh tế.
Quán triệt chủ trương đổi mới của Đảng, vào cuối năm 1986, huyện Vĩnh Hưng đã tổ chức Đại hội đảng bộ huyện lần III, đề ra phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 1986-1988 và hướng đến năm 1990. Về kinh tế, huyện chủ trương đẩy mạnh sản xuất toàn diện với trọng tâm là nông nghiệp, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa, mở rộng và không ngừng củng cố khoán sản phẩm, phát triển kinh tế gia đình, cải tiến phân phối lưu thông để thúc đẩy sản xuất.
Thực hiện tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Vĩnh Hưng lần III, chi bộ xã Thái Bình Trung tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới. Về nhân sự lãnh đạo, trong giai đoạn 1986-1990, đồng chí Nguyễn Thị Diệu là Bí thư chi bộ xã, đồng chí Lê Phước Hưng là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã giai đoạn (1986-7/1988), đồng chí Phạm Văn Thắng là Chủ tịch Ủy ban nhân dân giai đoạn (7/1988-1990). Bước vào thời kỳ đổi mới, Thái Bình Trung vẫn là một xã thuần nông, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội còn thô sơ, sản xuất nông nghiệp chưa toàn diện và vững chắc, hiệu quả sản xuất thấp, chăn nuôi nhỏ lẻ, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, một số hộ còn thiếu đói, nhất là trong những tháng giáp hạt. Mô hình làm ăn tập thể mà cụ thể là tập đoàn sản xuất vẫn chưa thật sự phù hợp với năng lực quản lý của cán bộ và trình độø phát triển của lực lượng sản xuất địa phương, lại được xây dựng theo ý chí chủ quan của con người, nặng về hình thức, không đạt hiệu quả cao trong phát triển kinh tế. Những bất hợp lý về phân phối sản phẩm và tác động của yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp đã làm cho mô hình kinh tế tập thể ở xã đứng trước nguy cơ tan rã. Những khiếu kiện về đất đai trong nội bộ nông dân tăng nhanh. Tình trạng trên đã đặt ra cho đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể xã Thái Bình Trung yêu cầu cấp thiết là phải ổn định nhanh chóng tình hình kinh tế-xã hội có nhiều biến động từ những năm cuối của thời kỳ bao cấp.
a.1-Về kinh tế:
-Củng cố hoạt động các tập đoàn sản xuất:
Năm 1986 đánh dấu thời điểm hết sức khó khăn đối với các tập đoàn sản xuất ở Thái Bình Trung. Sản xuất gặp nhiều bất lợi vì sâu rầy và thời tiết nắng hạn kéo dài. Tình trạng kém hiệu quả trong sản xuất, những bất hợp lý về khoán đất, phân phối sản phẩm đã đặt các tập đoàn sản xuất ở Thái Bình Trung trước nguy cơ tan rã. Nhiều hộ dân nộp đơn đòi lại đất, một số cán bộ quản lý của tập đoàn sản xuất cũng dao động, xin nghỉ việc.
Trước thực trạng ấy, để củng cố phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, Trung ương đã cho phép các địa phương thực hiện khoán hộ (khoán 10) với nội dung thay đổi phương thức ăn chia tính điểm theo ngày công bằng hình thức khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Trên cơ sở vận dụng chủ trương của Trung ương, chi bộ, chính quyền xã Thái Bình Trung đã tiến hành giao đất về cho các hộ gia đình tổ chức sản xuất theo phương thức khoán sản phẩm. Bên cạnh đó, xã còn tập trung giải quyết những đơn xin đòi đất một cách có tình, có lý, dựa trên năng lực sản xuất của từng hộ gia đình. Những việc làm trên đã góp phần giải phóng sức sản xuất của nông dân bằng việc trao cho nông dân quyền làm chủ trên mảnh ruộng của mình. Từ đó, người nông dân an tâm phấn khởi, tích cực chăm sóc đồng ruộng, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tạo ra thật nhiều lương thực cho xã hội mà trước tiên là cho gia đình mình. Từ khi áp dụng phương thức mới, năng suất, sản lượng lương thực tăng lên, người nông dân có nguồn thu nhập cao hơn so với lúc ăn chia tính theo công điểm. Nhìn chung, từ khi chuyển đổi phương thức quản lý kinh tế nông nghiệp theo tinh thần khoán hộ của Trung ương, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở Thái Bình Trung được củng cố và duy trì cho đến cuối năm 1988.
-Giải quyết những vấn đề phát sinh khi các đơn vị kinh tế tập thể tan rã:
Năm 1989, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến phức tạp. Chiến lược diễn biến hòa bình của các thế lực phản động quốc tế đã làm cho chế độ Xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước Đông Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng và sụp đổ. Ở trong nước, nhất là ở miền Nam, các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm, trở thành rào cản cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trước sự tác động mạnh mẽ của tình hình thế giới và trong nước, Trung ương Đảng quyết định giải thể các đơn vị kinh tế tập thể trong nông nghiệp (hợp tác xã và tập đoàn sản xuất), chính thức giao quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình để họ tự do phát triển sản xuất. Từ thời điểm này, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp không còn tồn tại.
Thực hiện chủ trương của cấp trên, chi bộ, chính quyền xã Thái Bình Trung khẩn trương bắt tay vào việc giải thể các tập đoàn sản xuất, giao lại quyền sử dụng đất cho nông dân. Trong quá trình thực hiện công tác này, đã nảy sinh những vấn đề lớn mà đảng bộ, chính quyền xã cần tập trung sức giải quyết. Thứ nhất là tư tưởng của một số cán bộ đảng viên làm công tác quản lý các tập đoàn sản xuất có phần hoang mang, dao động. Họ băn khoăn, chưa quán triệt đường lối đổi mới của Đảng và cho rằng thành quả 10 năm xây dựng phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở xã nhà đã bị xóa sạch. Thứ hai là việc khiếu nại của nông dân về vấn đề đất đai.
Nhằm ổn định tình hình địa phương, đảng bộ, chính quyền xã đã đề ra những giải pháp cơ bản để giải quyết ổn thỏa những vấn đề tồn tại nói trên như sau:
-Một là, tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục chủ trương đường lối đổi mới của Đảng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để họ quán triệt và thực hiện tốt. Cán bộ, đảng viên phải nắm rõ và thực hiện nghiêm túc chủ trương giao đất về cho nông dân của Đảng. Trong quá trình giải quyết đất đai, cán bộ, đảng viên phải kiên định, vững vàng, làm việc quên mình, nêu cao tinh thần trách nhiệm trước cấp trên và nhân dân.
-Hai là, khơi dậy và phát huy truyền thống cách mạng, tinh thần đoàn kết, tương trợ của nhân dân để vận động nhân dân nhường cơm xẻ áo cho những gia đình không có đất sản xuất, hiến đất hoặc đồng ý hoán đổi phần đất của mình đã sử dụng vào các công trình công cộng của xã để lấy phần đất khác.
Nhờ thực hiện thành công những giải pháp nói trên, chi bộ, chính quyền và các đoàn thể xã Thái Bình Trung đã giải quyết ổn thỏa tình hình khiếu nại đòi đất, hoàn thành công tác giao đất về cho các hộ nông dân chủ động tổ chức sản xuất.
Sau khi hoàn tất công tác trên, chi bộ, chính quyền xã tiếp tục giải quyết việc thanh lý vốn, công quỹ, tài sản của các tập đoàn sản xuất, hợp tác xã mua bán và sắp xếp, bố trí lại lực lượng cán bộ quản lý các tập đoàn sản xuất trước đây. Cho đến năm 1990, công tác giải quyết những vấn đề phát sinh do sự tan rã của các đơn vị kinh tế tập thể được hoàn tất. Tình hình sản xuất và đời sống nhân dân trong xã dần dần ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự vận hành của cơ chế quản lý kinh tế mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.
a.2-Về văn hóa-xã hội và an ninh quốc phòng:
Từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới, những chuyển biến về cơ chế quản lý kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến tình hình văn hóa-xã hội ở cả nước nói chung và Thái Bình Trung nói riêng. Bên cạnh những thuận lợi trong việc mở cửa giao lưu, hội nhập về kinh tế-văn hóa với thế giới, đã nảy sinh nhiều khó khăn phức tạp. Văn hóa phẩm đồi trụy, kích động, bạo lực đã xâm nhập vào nước ta. Xã Thái Bình Trung thuộc khu vực biên giới nên đã nhanh chóng chịu tác động của tình trạng này. Nguồn phim ảnh đồi trụy, kích động, bao lực có nguồn gốc từ nước ngoài đã làm cho giới trẻ thờ ơ với văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, hưởng thụ. Một số tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, trộm cắp bắt đầu xuất hiện.
Trước tình trạng trên, chi bộ, chính quyền và các đoàn thể xã Thái Bình Trung đã đề ra những biện pháp cụ thể nhằm ổn định đời sống văn hóa-xã hội ở địa phương, thể hiện trên 2 mặt xây và chống. Để giảm thiểu tác động của những sản phẩm văn hóa độc hại, chi bộ, chính quyền xã chỉ đạo Công an xã phối hợp với các ngành chức năng của huyện truy bắt và xử lý những trường hợp chiếu phim ngoài luồng có nội dung đồi trụy, kích động, bạo lực. Bên cạnh đó, chi bộ, chính quyền xã cũng chỉ đạo ngành văn hóa thông tin phối hợp với mặt trận, các đoàn thể tiến hành xây dựng, phát triển phong trào văn nghệ-thể thao, tạo điều kiện cho nhân dân-nhất là giới trẻ-có điều kiện sinh hoạt và hưởng thụ nền văn hóa mang đậm tính dân tộc và cách mạng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, truyền thống cách mạng của dân tộc, của địa phương cũng được chú trọng nhằm mục đích định hướng cho giới trẻ vươn tới lý tưởng tốt đẹp, hạn chế được những tác động tiêu cực do các sản phẩm văn hóa độc hại mang lại.
Trên cơ sở thực hiện tốt 2 mặt công tác xây và chống ấy, trong những năm đầu của thời mở cửa (1986-1990), chi bộ, chính quyền cùng các đoàn thể xã Thái Bình Trung đã ngăn chặn được ảnh hưởng của những sản phẩm văn hóa độc hại của nước ngoài, góp phần ổn định đời sống văn hóa-xã hội cho nhân dân. Việc làm trên đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, tạo điều kiện cho xã nhà tiếp tục thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo
2-Bước đầu phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội theo đường lối đổi mới (1991-1995)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức vào tháng 6-1991 đã khẳng định quyết tâm tiếp tục công cuộc đổi mới để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Quán triệt chủ trương của Trung ương, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện Vĩnh Hưng, chi bộ, chính quyền và nhân dân Thái Bình Trung quyết tâm thực hiện sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội theo đường lối đổi mới.
Trên cơ sở phát huy những thành tựu ban đầu của giai đoạn chuyển mình từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường (1986-1990), chi bộ, chính quyền và nhân dân Thái Bình Trung bước vào thời kỳ mới với thuận lợi cơ bản là một vùng đất giàu truyền thống cách mạng, nhân dân có kinh nghiệm sản xuất, có tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết gắn bó chặt chẽ với nhau. Chi bộ, chính quyền và nhân dân ủng hộ mạnh mẽ việc thực hiện đường lối đổi mới do Đảng đề ra. Tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở xã ngày càng được xây dựng, củng cố, phát triển không ngừng. Từ 14 đảng viên giai đoạn 1986-1990, đến năm 1995, chi bộ Thái Bình Trung đã phát triển lên 20 đảng viên, được chia làm 5 tổ đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của xã có tinh thần trách nhiệm cao, lập trường tư tưởng vững vàng, tuy được đào tạo qua trường lớp chưa nhiều, nhưng có kinh nghiệm thực tiễn, ngày càng trưởng thành và vững vàng về bản lĩnh chính trị, dám nhìn thẳng vào sự thật, nghiêm túc khắc phục khuyết điểm, tháo gỡ khó khăn để thực hiện công cuộc đổi mới. Trong giai đoạn này, đồng chí Phạm Văn Thắng là Bí thư chi bộ, đồng chí Huỳnh Quang Vui là Phó Bí thư, đồng chí Nguyễn Đình A là Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Vai trò lãnh đạo của chi ủy và vai trò quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân được xác định rõ ràng, tránh tình trạng chồng chéo như trước đây. Từ năm 1992, tổ chức Hội đồng nhân dân xã được kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động, đề ra nhiều nghị quyết phù hợp với tình hình thực tế để phát triển các mặt của đời sống xã hội ở địa phương. Uûy ban nhân dân xã căn cứ Nghị quyết của chi bộ và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân để tổ chức thực hiện. Qua thực tiễn hoạt động, Ủy ban nhân dân xã đã điều hành công việc hành chánh có hiệu quả, đúng trình tự do pháp luật quy định. Các ban ngành giúp việc ủy ban được sắp xếp chức danh, hoạt động ngày càng quy củ, nâng cao về mặt chuyên môn. Những thuận lợi trên chính là nền tảng quan trọng giúp cho đảng bộ, chính quyền xã Thái Bình Trung lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển toàn diện các mặt của đời sống xã hội trong giai đoạn 1991-1995.
2.1-Về kinh tế:
-Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Để phát triển kinh tế-xã hội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng là điều kiện hết sức cần thiết. Vì thế, chi bộ xã đã chủ trương từng bước xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của xã. Thực hiện chủ trương này, xã đã tiến hành đưa điện về nông thôn, nâng cấp hệ thống thủy lợi, xây dựng hệ thống giao thông nông thôn theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Việc đưa điện về các ấp để phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân có tầm quan trọng rất lớn đối với công tác phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Vì thế, chi bộ, chính quyền xã Thái Bình Trung đã quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện việc này. Căn cứ kế hoạch đầu tư của huyện và tình hình thực tế của địa phương, chi bộ và chính quyền xã đã xây dựng kế hoạch đưa điện về ấp Trung Trực. Đến năm 1995, xã hoàn thành lưới điện ở 4 ấp là Trung Trực, Trung Chánh, Trung Liêm, Trung Môn, đưa số hộ dân sử dụng điện trong xã lên 40%.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và chăn nuôi của nhân dân, xã tiếp tục duy tu, nâng cấp hệ thống thủy lợi đã được xây dựng từ những năm đầu sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.Trên cơ sở kinh phí của huyện đầu tư và nhân dân đóng góp, xã đã nạo vét các kinh rạch như: kinh 504, kinh Hưng Điền, kinh Rọc Bùi. Song song với công tác này, việc nâng cấp các tuyến giao thông chính và xây dựng hệ thống giao thông nông thôn trong xã cũng được chú trọng. Lộ nối liền xã với trung tâm huyện Vĩnh Hưng được đầu tư nâng cấp, rải sỏi đỏ. Tuy việc xây dựng cơ sở hạ tầng nói trên chỉ là bước đầu nhưng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và sản xuất của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.
-Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất chăn nuôi:
Trong giai đoạn 1991-1995, căn cứ Nghị quyết đại hội huyện đảng bộ lần thứ V và thực tế của địa phương, chi bộ, chính quyền xã Thái Bình Trung xác định sản xuất nông nghiệp đóng vai trò hàng đầu trong cơ cấu kinh tế của địa phương. Vì thế, chi bộ, chính quyền xã tập trung vào công tác lãnh đạo nhân dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, chăn nuôi dựa trên cơ sở xác định vị trí, thế mạnh về lao động, đất đai của từng khu vực trong xã. Kết cấu hạ tầng kinh tế-kỹ thuật của xã như hệ thống thủy lợi, giao thông nông thôn, hệ thống cấp điện …bước đầu được xây dựng đã phát huy tác dụng trong việc phát triển kinh tế. Về sản xuất, do điều kiện về đất đai, thổ nhưỡng, đất Thái Bình Trung chủ yếu thích hợp với việc trồng lúa. Từ khi ruộng đất được giao về cho hộ gia đình, nông dân hết sức phấn khởi, hăng hái tăng gia sản xuất, tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất cây trồng. Nguồn vốn vay của nhà nước từ nhiều nguồn với lãi suất thấp kết hợp với hoạt động phổ biến khoa học kỹ thuật đã tác động mạnh mẽ đến sản xuất của nông dân. Phong trào nông dân sản xuất giỏi phát triển sôi nổi. Cho đến năm 1995, sản xuất nông nghiệp của xã đã bắt đầu phát triển. Diện tích tăng vụ đạt 1550 ha, năng suất lúa bình quân đạt 3,5 tấn/ha, bình quân lương thực đầu người là 2550 kg/năm. Về chăn nuôi, đến năm 1995, xã có đàn heo trên 700 con. Số lượng gia cầm phát triển khá với khoảng 5000 con. Ngành chăn nuôi đã góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao thu nhập của nhân dân.
Các dịch vụ mua bán nhỏ phục vụ sản xuất và tiêu dùng ở xã ra đời. Đến cuối năm 1995, Thái Bình Trung có khoảng 17 hộ kinh doanh dịch vụ mua bán nhỏ.
Nhìn chung, kinh tế nông nghiệp ở Thái Bình Trung dần dần phát triển. Giá trị kinh tế trên mỗi ha lúa ngày một tăng. Bộ mặt nông thôn đã có những chuyển biến tích cực. Số hộ khá và giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm xuống. Số hộ có xe máy, ti vi, radio ngày càng nhiều. Toàn xã có 40% số hộ sử dụng điện trong sinh hoạt và sản xuất. Đường giao thông nông thôn được xây dựng và nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong sinh hoạt và vận chuyển hàng hóa. Đây chính là những thành tựu cơ bản, góp phần quan trọng để phát triển các lĩnh vực văn hóa-xã hội-an ninh quốc phòng của địa phương.
2.2-Trên lĩnh vực văn hóa-xã hội, an ninh quốc phòng
Trên lĩnh vực thông tin, công tác tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cùng các nhiệm vụ chính trị của địa phương cho nhân dân được chính quyền xã thực hiện thường xuyên bằng nhiều hình thức: phát thanh, cổ động, sách báo... Trên lĩnh vực văn hóa, từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, do mặt trái của nền kinh tế thị trường, các sản phẩm văn hóa của nước ngoài tiếp tục tràn vào nước ta, lấn át các hoạt động văn hóa-văn nghệ trong nước. Vì thế, các đoàn cải lương, đội chiếu phim của tỉnh, của huyện cũng ít về xã phục vụ nhân dân. Tình hình phổ biến trái phép các sản phẩm văn hóa ngoài luồng như phim, băng ca nhạc…vẫn còn diễn ra. Phong trào văn nghệ- thể dục-thể thao trong xã từng bước củng cố và phát triển. Nhờ sự quan tâm lãnh đạo của cấp trên và cấp ủy, chính quyền xã, nguồn điện được đem về thôn xóm đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân được hưởng thụ các sản phẩm văn hóa phóng phú, đa dạng, bổ ích trên các phương tiện thông tin-truyền thông đại chúng. Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa bắt đầu phát triển và đi vào thực chất.
Về giáo dục, cơ sở trường lớp trong xã được nâng cấp, sửa chữa. Công tác cải cách giáo dục được thực hiện từ thập niên 1980 đã tạo chuyển biến quan trọng, góp phần từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Các trường cấp I và cấp II đều đạt và giữ vững danh hiệu tiên tiến trong nhiều năm. Đội ngũ giáo viên tương đối ổn định, số lượng giáo viên giỏi ngày một tăng. Tỉ lệ học sinh lên lớp và thi đỗ trong kỳ thi chuyển cấp đạt trên 95% mỗi năm.
Về y tế, công tác phòng chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân được nâng lên. Ngoài việc khám chữa bệnh thường xuyên cho nhân dân, xã đã thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, chương trình truyền thông dân số-kế hoạch hóa gia đình. Phong trào kế hoạch hóa gia đình phát triển đã góp phần hạ tỉ lệ tăng dân số xuống còn 12,3%.
Công tác lao động-thương binh xã hội được chi bộ, chính quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện với tinh thần trách nhiệm đối với các đối tượng chính sách. Xã đã hoàn thành công tác di dời hài cốt liệt sĩ về nghĩa trang của huyện, đồng thời tiếp tục xét khen thưởng 3 thời kỳ, lập hồ sơ đề nghị cấp trên phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng cho các mẹ liệt sĩ đạt tiêu chuẩn theo quy định. Bên cạnh đó, xã còn thực hiện tốt công tác chi trả trợ cấp cho các hộ chính sách, tổ chức thăm viếng, cúng tế khi các hộ gia đình này có người bệnh hoặc qua đời. Những hộ nghèo khó, neo đơn đều được quan tâm giúp đỡ, cứu trợ để vơi bớt khó khăn. Người mù, người tàn tật đều được điều tra, lập danh sách để chuyển lên cấp trên có chính sách hỗ trợ.
Về an ninh-quốc phòng, trong giai đoạn 1991-1995, chi bộ, chính quyền xã Thái Bình Trung đã lãnh đạo thực hiện tốt công tác giữ vững biên giới, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động của lực lượng quân sự-công an, bảo đảm công tác quân sự địa phương. An ninh chính trị và trật tự xã hội luôn ổn định, không xảy ra những vụ trọng án. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc ngày càng phát triển, góp phần nâng cao ý thức cảnh giác, bảo vệ xóm làng của nhân dân. Công an xã kết hợp Mặt trận tổ quốc xây dựng được các ban tổ tự quản và bước đầu phát huy được vai trò trong công tác phòng chống tội phạm, giữ gìn sự bình yên trong thôn xóm.Về quốc phòng, chi ủy, chính quyền xã đã thực hiện tương đối tốt công tác quân sự địa phương. Lực lượng dân quân tự vệ tiếp tục được xây dựng và phát triển, đạt 3 % dân số. Công tác tuyển quân đạt chỉ tiêu cấp trên giao nhiều năm liền.
*
* *
Nhìn chung, mặc dù nhiều tồn tại cần khắc phục, nhưng trong bước đầu phát triển kinh tế-văn hóa xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng theo đường lối đổi mới của Đảng (1991-1995), chi bộ, chính quyền và nhân dân Thái Bình Trung đã đạt được những thành quả nhất định. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội của xã như đường giao thông, hệ thống thủy lợi, hệ thống cấp điện, trường học, trạm y tế được đầu tư xây dựng và bước đầu phát huy tác dụng. Nhờ đó, nhân dân Thái Bình Trung có điều kiện khai thác tiềm năng đất đai và lao động, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi đều tăng. Kinh tế phát triển đã làm cho đời sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn chuyển biến rõ rệt, hộ đói, hộ nghèo giảm dần. Đời sống tinh thần của nhân dân được nâng lên thông qua việc hưởng thụ về thông tin, văn hóa-văn nghệ từ các phương tiện truyền thông đại chúng. Các cơ sở y tế -giáo dục đã đáp ứng về cơ bản nhu cầu của nhân dân. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Những thành tựu về kinh tế-văn hóa-xã hội kể trên là động lực mạnh mẽ thúc đẩy đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thái Bình Trung bước vào một giai đoạn mới trong quá trình xây dựng quê hương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
3. Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn (1996-2005)
Năm 1996, Đảng ta tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần VIII Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hà Nội. Đại hội khẳng định kết quả mà cả nước đạt được sau 10 năm đổi mới là thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Đường lối đổi mới là hết sức đúng đắn, góp phần đưa đất nước đi lên công nghiệp hóa-hiện đại hóa từng bước vững chắc. Trên cơ sở nhận thức ấy, Đảng đã đề ra mục tiêu:”Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
Sau 10 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng (1986-1996), tình hình kinh tế xã hội của Vĩnh Hưng nói chung và xã Thái Bình Trung nói riêng đã chuyển biến rõ rệt. Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần VIII Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ huyện lần VI và phát huy những thành tựu ban đầu của 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chi bộ, chính quyền và nhân dân Thái Bình Trung bước vào thời kỳ đầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong điều kiện thuận lợi và khó khăn đan xen nhau.
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã bị xóa bỏ, thay vào đó là cơ chế kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm nhưng cũng lắm khuyết tật. Kinh tế thị trường phát triển làm cho sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, một bộ phận nông dân trong xã đã khó khăn, nay còn gặp nhiều khó khăn hơn trong đời sống. Sản xuất nông nghiệp-ngành sản xuất chính của xã còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố không thuận lợi như: nắng hạn kéo dài, nước mặn xâm nhập sâu, lũ lớn liên tục nhiều năm, chuột bọ, sâu rầy thường xuyên gây hại, hạn hán, giá cả hàng hóa nông sản không ổn định. Tình hình biên giới luôn diễn biến phức tạp, vấn đề tranh chấp đất đai vẫn còn xảy ra. Kết cấu hạ tầng của xã còn chậm phát triển. Bên cạnh những khó khăn ấy, Thái Bình Trung có thuận lợi cơ bản là được sự quan tâm lãnh đạo sâu sát của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, sự quan tâm đầu tư của các cấp để từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng thật sự đi vào cuộc sống, các nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện ủy đã tác động mạnh đến sản xuất và đời sống của nhân dân, thúc đẩy kinh tế phát triển. Bên cạnh đó, đảng bộ và nhân dân trong xã có truyền thống đoàn kết, có ý chí tự lực tự cường, cần cù lao động và có nhiều kinh nghiệm trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới ở địa phương. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội của xã bước đầu được xây dựng, phát huy tác dụng trong việc phát triển toàn diện các mặt của đời sống xã hội ở địa phương. Đội ngũ cán bộ, đảng viên từng bước được đào tạo, nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ mới. Bộ máy đảng, chính quyền được rèn luyện qua thực tiễn ngày càng phát triển về tổ chức và năng lực lãnh đạo điều hành. Tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền xã ngày càng được đổi mới. Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân xã được nâng cao, nhất là vai trò của thường trực Hội đồng nhân dân. Công tác chuẩn bị nội dung, hình thức chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân cũng được đổi mới và đi vào thực chất. Công tác cải cách hành chánh được thực hiện có hiệu quả theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chánh và sử dụng cơ chế một cửa. Thực hiện nghiêm túc quy định về chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu cơ quan nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công chức được xây dựng và đào tạo cơ bản, để quản lý, điều hành các hoạt động hành chính theo hướng chính quy, hiện đại. Trên cơ sở phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn nêu trên, chi bộ, chính quyền xã Thái Bình Trung đã lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn qua hai giai đoạn cơ bản sau:
3.1-Tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực lãnh đạo của chi ủy, đổi mới hoạt động của Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tạo điều kiện phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội (1996-2000):
Căn cứ mục tiêu tổng quát của huyện, trên cơ sở điều kiện thực tế của địa phương, năm 1996, chi bộ Thái Bình Trung tổ chức đại hội nhiệm kỳ 1996-2000, bầu ban chi ủy gồm các đồng chí sau:
1.Phạm Văn Thắng: Bí thư.
2.Ngô Bá Hải: Phó Bí thư.
3.Nguyễn Đình A: Chi ủy viên, Chủ tịch UBND.
4.Trần Việt Hùng: Chi ủy viên.
5.Lương Văn Ý: Chi ủy viên.
Chi bộ đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của xã trong giai đoạn 1996-2000 là: đẩy mạnh phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững an ninh quốc phòng.
3.1.1-Tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội:
Kết cấu hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội của một địa phương. Vì thế, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội là mục tiêu quan trọng mà chi bộ, chính quyền xã Thái Bình Trung phấn đấu thực hiện. Trong giai đoạn 1996-2000, chi bộ xã đã tập trung lãnh đạo xây dựng các công trình trọng điểm, có tác dụng thiết thực đến việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Về thủy lợi, ngoài các công trình do Trung ương, tỉnh, huyện đầu tư như công trình nạo vét sông Long Khốt, rạch Láng Đao, rạch Ô-Mê-Còn, rạch Sam No, kinh Rọc Bùi, kinh lộ Long Khốt-Măng-đa…, xã còn vận động nhân dân đóng góp hàng trăm triệu đồng để thi công hệ thống kinh mương nội đồng đảm bảo tưới tiêu cho trên 2500 ha lúa 2 vụ. Kết hợp với hệ thông kinh mương nội đồng, hệ thống giao thông nông thôn dài 20km nối liền các ấp trong xã cũng được hình thành, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển, học hành cho nhân dân. Lưới điện được phủ kín 5/7 ấp của xã, hệ thống hạ thế từng bước được thiết lập hoàn chỉnh, tạo điều kiện cho 457 hộ dân có điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Hệ thống cấp nước cũng được xây dựng, bước đầu đã cung cấp nước sạch cho 30 hộ dân, sau khi hoàn thành, hệ thống này có khả năng phục vụ cho 250 hộ. Hệ thống thông tin liên lạc bước đầu được xây dựng với 30 máy điện thoại hòa mạng tự động, đảm bảo thông tin liên lạc với toàn quốc. Xã xây dựng 5 phòng học mới cho trường cấp II, tu sửa 7 phòng khác với tổng kinh phí 300 triệu đồng. Trạm y tế cũng được xây dựng mới với đầy đủ trang thiết bị, đảm bảo công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Trụ sở làm việc của xã đã được xây dựng khang trang với kinh phí 450 triệu đồng.
Thành tựu nói trên là kết quả của vai trò lãnh đạo, điều hành của chi bộ, chính quyền xã trong việc khơi dậy và phát huy nguồn lực to lớn của nhân dân, đồng thời tranh thủ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư của cấp trên. Về phía nhân dân, phát huy truyền thống cách mạng của mình, nhân dân Thái Bình Trung đã đoàn kết nhất trí dưới sự lãnh đạo của Đảng, tích cực đóng góp sức người sức của để hoàn thành mục tiêu xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội của địa phương. Nhờ đó các công trình kết cấu hạ tầng của xã đều được thực hiện đúng quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo chất lượng, tạo vẻ mỹ quan cho bộ mặt nông thôn, đồng thời đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, tốc độ phát triển của các công trình nhất là các công trình phục vụ cho sản xuất và đời sống cho nhân dân vẫn còn chậm. Việc quy hoạch xây dựng chợ, đường giao thông nông thôn vẫn còn khó khăn trong mùa mưa và khi lũ về, hệ thống thủy lợi kết hợp giao thông nông thôn còn bất cập. Cơ chế quản lý, thủ tục thực hiện việc xây dựng các công trình còn rườm rà, việc quản lý, giám sát thi công còn một số thiếu sót ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Đó là những vấn đề mà xã cần nhanh chóng khắc phục trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng.
3.1.2-Phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội, ổn định an ninh quốc phòng:
Những công trình kết cấu hạ tầng nông thôn cần thiết bước đầu được xây dựng đã nhanh chóng phát huy tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển về kinh tế-văn hóa-xã hội ở Thái Bình Trung. Được sự lãnh đạo của chi bộ, sự quản lý điều hành của chính quyền, nhân dân Thái Bình Trung đã đạt được những thành tựu khả quan trong giai đoạn 1996-2000.
-Về kinh tế:
Chi bộ, chính quyền xã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, trong đó nông nghiệp có vị trí hàng đầu. Từ đó, xã đã thực hiện tốt các biện pháp khai hoang, thâm canh tăng vụ gắn với chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao trong sản xuất. Trung đó, mũi nhọn là việc tập trung đầu tư phát triển cây lúa theo hướng thâm canh, tăng năng suất. Các công trình thủy lợi đã phát huy tác dụng rõ rệt trong việc cải tạo và tăng diện tích sản xuất từ 1 vụ thành 2 vụ có năng suất cao. Đến năm 1996, xã đã đưa diện tích sản xuất lúa 2 vụ lên 5100 ha, tăng 42% so với nghị quyết, trong đó, diện tích khai hoang, chuyển vụ là 300 ha. Năng suất bình quân đạt 8,5 tấn/ha/năm, bình quân lương thực đạt 6 tấn/người/năm. Cùng với cây lúa, được sự quan tâm lãnh đạo cấp ủy, chính quyền xã, cây rau màu, cây lương thực ngắn cũng được nhân dân phát triển. Từ chỗ nhân dân chưa có tập quán trồng rau màu, đến năm 1996, toàn xã đã có 20 ha rau màu, năng suất bình quân 12 tấn/ha
Đối với lĩnh vực chăn nuôi, do giá cả không ổn định nên phát triển còn chậm. Tuy nhiên, trong những năm cuối nhiệm kỳ, nhờ sự hỗ trợ của các nguồn giải quyết việc làm nên đàn heo phát triển lên 1200 con, gà, vịt 20.000 con, đặc biệt đàn bò vỗ béo phát triển lên 1000 con, đạt hiệu quả kinh tế khá cao.
Về lâm nghiệp, nhân dân phát triển mô hình trồng cây bạch đàn dọc kinh rạch, lộ giao thông và biên giới để nâng cao thu nhập, tạo nguyên liệu trong việc xây dựng nhà cửa và trang bị vật dụng gia đình.
Nhìn chung, trong giai đoạn 1991-1996, thắng lợi có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế ở Thái Bình Trung là phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa năng suất, chất lượng cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số khuyết điểm cần nhanh chóng khắc phục như: nông nghiệp phát triển không toàn diện, tỷ trọng chăn nuôi còn thấp, các điều kiện về kết cấu hạ tầng phục vụ cho nhu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, nhất là các công nghệ thu hoạch, bảo quản, chế biến.
-Về văn hóa-xã hội:
Trên cơ sở các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hóa-xã hội, chi bộ đã xác định phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội đồng thời xem văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển. Vận dụng nội dung trên vào tình hình thực tế của địa phương, Thái Bình Trung đã đạt được những thành quả đáng kể về văn hóa-xã hội.
Về văn hóa, quán triệt tinh thần Nghị quyết TW 4 (khóa VII) và Nghị quyết TW 5 (khóa VIII), các hoạt động văn hóa, văn nghệ của xã đều hướng về việc khơi dậy, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và xây dựng nền văn hóa tiên tiến. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” gắn với cuộc vận động xây dựng “Nếp sống văn minh, gia đình văn hóa”được nhân dân tích cực hưởng ứng. Có trên 98% hộ dân trong xã đăng ký thực hiện 4 nội dung gia đình văn hóa. Qua bình xét hàng năm, có 90% số hộ đã đăng ký được xét đạt từ 3-4 nội dung. Hoạt động thông tin thường xuyên được thực hiện với chất lượng tốt, đảm bảo việc kịp thời thông báo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Ủy ban nhân dân các cấp đến với nhân dân. Phong trào văn hóa-văn nghệ-thể dục thể thao có khởi sắc qua việc tổ chức hội thi, hội diễn hàng năm và tham gia các giải thi đấu do huyện tổ chức. Những hoạt động về văn hóa-văn nghệ-thể dục thể thao này đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, nâng cao thể chất cho nhân dân. Nhìn chung, đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng được nâng cao về chất lượng, các phương tiện hưởng thụ văn hóa ngày càng phong phú. Toàn xã có trên 80% số hộ có phương tiện nghe nhìn, 20% số hộ có xe gắn máy, 40% số hộ xây dựng được nhà kiên cố, bán kiên cố.
Về giáo dục, cấp ủy, Ủy ban thường xuyên quan tâm lãnh đạo sự nghiệp giáo dục ở địa phương. Toàn xã hiện có 5 điểm trường, trong đó có 1 trường cấp 2 với 20 phòng học được xây dựng kiên cố, bảo đảm cho hơn 800 học sinh học 2 ca. Bên cạnh đó, chính quyền còn phối hợp với Hội Phụ huynh học sinh xây dựng nhà tập thể cho giáo viên tạo điều kiện cho giáo viên an tâm công tác. Đội ngũ giáo viên của xã có tinh thần yêu nghề, ý thức trách nhiệm cao, được bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ chuyên môn, từng bước chuẩn hóa. Vì thế, chất lượng dạy và học luôn được nâng cao. Tỉ lệ huy động học sinh ra lớp 1 hàng năm đạt trên 97%. Chất lượng giáo dục tiểu học đạt 92%, thi tốt nghiệp tiểu học nhiều năm liền đạt 100%. Chất lượng giáo dục Trung học cơ sở đạt 95%, thi tốt nghiệp Trung học cơ sở năm 1999-2000 đạt 100%. Xã được công nhận chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học-xóa mù chữ năm 1997.
Về y tế, trạm y tế được đầu tư xây dựng mới với 7 giường bệnh, 5 y sĩ, y tá cùng với những trang thiết bị cần thiết đã bước đầu đảm bảo công tác khám chữa bệnh cho nhân dân. Mạng lưới y tế cộng đồng được củng cố, các chương trình y tế quốc gia, tiêm chủng mở rộng, thanh toán bại liệt, uống vitamin A đều đạt trên 98%. Nhờ đó, xã đã kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa các dịch bệnh, đồng thời quản lý chặt chẽ dịch vụ y tế tư nhân để khuyến khích họ cùng nhà nước chăm lo bvảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình đã được chi ủy, chính quyền xã xem là công tác quan trọng thường xuyên, đầu tư ít nhưng lợi ích nhiều, góp phần quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo, nâng cao sức khỏe và đời sống của nhân dân. Trên tinh thần ấy, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong xã luôn gương mẫu đi đầu trong công tác kế hoạch hóa gia đình và vận động nhân dân thực hiện tốt. Nhờ đó, công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả rất khả quan. Tỉ lệ phát triển dân số giảm từ 4,5% năm 1996 còn 2,2% vào năm 2000.
Về xã hội, xã luôn thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa đối với các gia đình chính sách, mẹ Việt Nam anh hùng. Từ 1996-2000, xã tiếp tục thực hiện chính sách giải quyết tồn đọng sau chiến tranh, hoàn thành hồ sơ đề nghị cấp trên xét công nhận và giải quyết chế độ cho những đối tượng có công với cách mạng. Việc cấp phát tiền chính sách được xã thực hiện kịp thời, thường xuyên. Những gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước, các mẹ Việt Nam anh hùng đều được xã thăm viếng, giúp đỡ trong dịp lễ tết và những lúc khó khăn, hữu sự. Các mẹ Việt Nam anh hùng còn sống đều được phụng dưỡng suốt đời. Từ nguồn quỹ đền ơn đáp nghĩa do cấp trên cấp phát và sự đóng góp của nhân dân, xã đã xây dựng được 11 căn nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách, các mẹ Việt Nam anh hùng. Đối với những người già yếu, neo đơn, phát huy truyền thống tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách, chi ủy, chính quyền xã đã vận động xây dựng 3 căn nhà tình thương để giúp các hộ này vượt qua khó khăn, hoạn nạn.
Công tác xóa đói, giảm nghèo được xã thực hiện có hiệu quả thông qua nguồn vốn nhà nước và các tổ chức xã hội đầu tư để tạo việc làm, phát triển kinh tế gia đình, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Nhờ đó, xã đã xóa hộ đói, giảm 30% số hộ nghèo. Đời sống nhân dân cơ bản ổn định.
Nhìn chung, trong giai đoạn 1996-2000, lĩnh vực văn hóa-xã hội ở Thái Bình Trung đã có những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế nhất định như: nội dung hoạt động văn hóa thông tin còn chưa phong phú, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân, công tác xây dựng đời sống văn hóa còn chưa toàn diện, người lao động còn thiếu việc làm. Nguyên nhân của những tồn tại này là do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa-xã hội còn hạn chế về năng lực, trình độ, kinh phí đầu tư cho văn hóa-xã hội còn thấp, chưa có biện pháp thực hiện xã hội hóa đối với công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Đây là những hạn chế mà đảng bộ, chính quyền và nhân dân ở Thái Bình Trung cần ra sức khắc phục trong thời gian tới.
-Về an ninh quốc phòng:
Thái Bình Trung thuộc địa bàn biên giới nên tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp. Vì thế, công tác an ninh-quốc phòng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu cần tập trung lãnh đạo của chi bộ, chính quyền xã. Việc xây dựng kế hoạch phòng thủ A1, A2, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân, được thực hiện tốt. Quy chế qua lại biên giới theo tinh thần Nghị định 42/HĐBT và việc phối hợp các lực lượng đứng chân trên địa bàn để đảm bảo tuyệt đối an toàn trên tuyến biên giới cũng được tiến hành nghiêm túc. Mối quan hệ hữu nghị với chính quyền và nhân dân xã bạn bên kia biên giới được thường xuyên duy trì. Ngoài ra, xã còn tổ chức họp giao ban biên giới hàng tháng để kịp thời giải quyết những mâu thuẫn phát sinh về đất đai, quyền lợi của nhân dân 2 bên, tránh những xung đột đáng tiếc xảy ra. Xã tổ chức và triển khai thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, thành lập Ban chỉ huy thống nhất kết hợp với lực lượng biên phòng thường xuyên tấn công các loại tội phạm, bắt giữ và xử lý hàng chục vụ buôn lậu và các loại tệ nạn khác để làm trong sạch địa bàn. Phong trào Quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc phát triển sâu rộng với nhiều tổ tự quản, tổ an ninh nhân dân. Nhờ đó, trong suốt nhiệm kỳ, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Về công tác quân sự địa phương, xã đã thường xuyên tuyên truyền giáo dục Luật Nghĩa vụ quân sự và Pháp lệnh dân quân tự vệ cho nhân dân quán triệt và thực hiện. Nhờ đó mà từ năm 1996-2000, xã đạt bình quân trên 95% chỉ tiêu tuyển quân huyện giao. Lực lượng dân quân tự vệ của xã được xây dựng, đạt 5,2% dân số trong xã. Hàng năm, lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên đều được tập trung huấn luyện, duy trì chế độ trực sẵn sàng chiến đấu.
*
* *
Nói chung, trong giai đoạn 1996-2000, chi ủy, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân Thái Bình Trung đã đoàn kết một lòng, nỗ lực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, phát triển sản xuất nông nghiệp với chủ lực là cây lúa theo hướng thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất, chất lượng hàng hóa. Nhờ đó, kinh tế của xã đã chuyển biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn ổn định. Những thành tựu trên đã tạo nền tảng vững chắc để Thái Bình Trung tiến nhanh hơn nữa trên con đường xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
3.2-Tiếp tục phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn (2000-2010)
3.2.1.Giai đoạn 2000-2005
Năm 2000 là cột mốc đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của Thái Bình Trung. Nhiệm kỳ đại hội XI của chi bộ Thái Bình Trung đã kết thúc. Chi bộ tổ chức Đại hội lần XII vào tháng 9 năm 2000. Trong Đại hội này, chi bộ Thái Bình Trung có 26 đảng viên với 5 tổ đảng trực thuộc (4 tổ đảng ấp và tổ đảng quân sự). Đại hội đã bầu chi ủy gồm 5 đồng chí, gồm:
1.Ngô Bá Hải: Bí thư.
2.Lê Văn Mỹ: Phó bí thư.
3.Nguyễn Văn Mến: Chi ủy viên.
4.Trần Việt Hùng: Chi ủy viên.
5.Phạm Văn Toàn: Chi ủy viên.
Về phía chính quyền, trong nhiệm kỳ 2000-2005, đồng chí Nguyễn Văn Mến được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Trong nhiệm kỳ 1996-2000, chi bộ Thái Bình Trung là chi bộ trong sạch vững mạnh 3 năm liền. Do sự trưởng thành về chất và về lượng, vào năm 2003, chi bộ Thái Bình Trung đã được Thường vụ huyện ủy Vĩnh Hưng ra quyết định số 96/QĐ-HU, ngày ....nâng lên đảng bộ cơ sở với 5 chi bộ trực thuộc. Ngày 4-7-2003, Đảng bộ xã Thái Bình Trung họp giữa nhiệm kỳ, bầu Ban Chấp hành Đảng ủy gồm các đồng chí sau:
-Ngô Bá Hải-Bí thư Đảng ủy.
-Phạm Văn Toàn-Phó bí thư Đảng ủy.
-Nguyễn Văn Mến-Đảng ủy viên.
-Nguyễn Văn Học-Đảng ủy viên.
-Phan Văn Huyền-Đảng ủy viên.
-Nguyễn Văn Oanh-Đảng ủy viên.
-Nguyễn Văn Tiện-Đảng ủy viên.
-Hồ Văn Trong-Đảng ủy viên.
-Nguyễn Văn Kháng-Đảng ủy viên.
Trong nhiệm kỳ 2000-2005 qua 2 đại hội, đảng bộ Thái Bình Trung đã đề ra phương hướng phát triển kinh tế xã hội với những mục tiêu tổng quát như sau:
-Đẩy mạnh phát triển kinh tế của địa phương, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi với mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao năng suất cây trồng theo hướng thâm canh, tăng vụ, tăng diện tích, tăng chất lượng sản phẩm; tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn; tiếp tục xây dựng, phát huy những mô hình tổ liên kết, tổ hợp tác kiểu mới để nâng cao đời sống nhân dân, tiến tới hình thành các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.
-Thực hiện tốt các chính sách xã hội, phát triển đời sống văn hóa, sự nghiệp giáo dục, y tế, chăm lo đời sống nhân dân. Nâng cao dân trí, thực hiện tốt chủ trương xóa đói giảm nghèo, quan tâm đến cuộc sống của các đối tượng chính sách còn gặp khó khăn.
-Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Từ sau đại hội, toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Thái Bình Trung đã phát huy cao độ truyền thống đoàn kết, sáng tạo, tự lực tự cường, tập trung sức lực, trí tuệ để hoàn thành mục tiêu trên và đạt được những thành quả sau:
+Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân
Từ đầu năm 2001, Thái Bình Trung đã tích cực khai thác các nguồn lực để tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng, đẩy mạnh phát triển kinh tế. Thực hiện chương trình dân sinh vùng lũ, xã đã xây dựng xong cụm dân cư ấp Trung Trực với diện tích 7,7ha, san lấp mặt bằng cụm dân cư Láng Đao, tuyến dân cư kinh Hưng Điền. Riêng cụm dân cư Trung Trực đã hoàn thành các công trình hạ tầng cần thiết như: chợ, điện, nước, đường và bố trí nhân dân vào sinh sống. Lưới điện hạ thế được phủ xuống tất cả các ấp, hệ thống cấp nước sạch ở trung tâm xã được nâng cấp, đồng thời xây dựng khoan thêm 3 giếng khoan mới. Một số kinh rạch được nạo vét như: kinh Chống chiến xa, kinh lộ 11, rạch Láng Đao, bào Rọc Chum. Khôi phục các đường xe cũ ở ấp Trung Trực, Trung Liêm, Trung Môn, hoàn chỉnh tuyến đường giao thông nông thôn Trung Chánh-Trung Thành và tuyến lộ kinh Rọc Bùi. Trường Cấp I và Cấp II được xây dựng đạt chuẩn, các điểm trường Trung Liêm, Trung Môn, Trung Trực được nâng cấp. Tổng mức đầu tư cho các công trình trên lên đến 30 tỷ đồng. Nhìn chung, trong giai đoạn 2000-2005, công tác lãnh đạo xây dựng kết cấu hạ tầng của cấp ủy, Ủy ban xã được thực hiện tốt, đúng hướng, đúng quy hoạch, tốc độ nhanh, mang tính lâu dài làm tiền đề cho việc phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.
Kết quả trên đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. Đối với nông nghiệp, xã đẩy mạnh khai thác tiềm năng đất đai, thâm canh tăng vụ, khai thác hiệu quả các công trình thủy lợi, hỗ trợ nhân dân ứng dụng thành tựu khoa học-kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi. Tổng sản lượng lương thực hàng năm của xã đạt 25550 tấn, bình quân lương thực trên đầu người là 6231kg/năm. Nông dân đã phát triển giống lúa có năng suất và chất lượng cao nên hiệu quả kinh tế trên mỗi ha tăng hơn trước. Diện tích rau màu tiếp tục phát triển từ 20 ha năm 2000 lên 80 ha năm 2005, năng suất bình quân đạt 20 tấn/ha. Ngoài cây rau màu chủ lực là dưa hấu nông dân còn trồng mới 7 ha tre lấy măng có hiệu quả kinh tế cao. Ngành chăn nuôi có bước phát triển mới. Nông dân đã kết hợp giữa nguồn thức ăn tại chỗ và thức ăn hỗn hợp để rút ngắn thời gian chăn nuôi, tăng chu kỳ vòng quay, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thông qua thị trường tự do, việc cung cấp thức ăn, con giống, thuốc chữa bệnh và tiêu thụ sản phẩm dễ dàng hơn. Đàn gia súc tăng gấp đôi so với đầu nhiệm kỳ. Chăn nuôi đã góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình, mang lại cho nhân dân nguồn thu nhập đáng kể. Giá trị ngành chăn nuôi đem lại chiếm tỉ trọng 25% trong cơ cấu kinh tế.
Về kinh tế hợp tác, xã đã xây dựng được 7 tổ hợp tác bơm nước, 2 tổ nhân giống…giúp nông dân chủ động trong sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Tiểu thủ công nghiệp ở xã chủ yếu là hộ tư nhân, nhỏ lẻ, tự phát, sản xuất một số sản phẩm phục vụ một phần nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân như: sửa chữa máy móc, gò, hàn, xay xát, mộc gia dụng…, chiếm tỉ trọng khoảng 8-10% trong cơ cấu kinh tế.
Thái Bình Trung là tiểu khẩu biên giới, tuy không có chợ biên giới nhưng hàng ngày đều có hàng trăm lượt người qua lại mua bán, trao đổi hàng hóa. Nhờ đó, dịch vụ và thương mại tương đối phát triển theo hướng tích cực phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân.
Nói chung, trong giai đoạn 2000-2005, kinh tế nông nghiệp ở Thái Bình Trung đã phát triển khá mạnh, đạt tốc độ tăng trưởng từ 10-11%/năm. Các công trình hạ tầng gắn với xây dựng nông thôn mới được đầu tư xây dựng. Ngành trồng trọt và chăn nuôi vốn là thế mạnh của xã tiếp tục phát triển. Công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật được thực hiện tốt, tạo điều kiện cho nông dân thâm canh tăng vụ, tăng năng suất, sản lượng và chất lượng nông sản. Đời sống vật chất của nhân dân được nâng lên rõ rệt.
+Thúc đẩy hoạt động văn hóa-xã hội:
Nét đặc trưng trong hoạt động văn hóa-xã hội của Thái Bình Trung giai đoạn 2000-2005 là xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội.
Hoạt động văn hóa- văn nghệ, thông tin tuyên truyền có nhiều chuyển biến về nội dung và hình thức, cơ bản đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân và phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương. Hệ thống truyền thanh được nâng cấp với 6 cụm và 12 loa, phục vụ 75% hộ dân đã phục vụ tốt công tác tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Phong trào rèn luyện sức khỏe, thể dục thể thao phát triển mạnh thu hút nhân dân ở nhiều độ tuổi tham gia. Hàng năm, xã đều tham gia hội thao cấp huyện và đạt kết quả khá cao. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa có nhiều khởi sắc và đi vào thực chất. Cho đến năm 2005, xã có ấp văn hóa, trong đó có 2 ấp đạt cấp tỉnh. Toàn bộ hộ gia đình và các cơ quan, trường học trên địa bàn xã đều đăng ký xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn minh. Sự phát triển của phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã góp phần xóa bỏ những hủ tục và mê tín dị đoan trong thôn xóm.
Trên cơ sở xác định con người là nguồn lực cực kỳ quan trọng để phục vụ cho phát triển, đảng ủy, chính quyền xã Thái Bình Trung đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. Xã đã thực hiện tốt phương châm”Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong việc đầu tư xây dựng, sửa chữa cơ sở trường học, trang bị thiết bị dạy và học. Đến năm 2005, xã đã xây dựng xong Trường cấp II (7 lớp), Trường cấp I (23 lớp) và Trường mẫu giáo (4 lớp). Được sự quan tâm của đảng ủy, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân, chất lượng dạy và học của các cấp học ở Thái Bình Trung ngày càng được nâng cao. Dự kiến vào cuối năm 2005, xã sẽ hoàn thành phổ cập Trung học cơ sở.
Bên cạnh sự nghiệp giáo dục, Thái Bình Trung đã chú trọng đầu tư cơ sở vật chất và con người để phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Trạm y tế được xây dựng mới, trang thiết bị khám chữa bệnh được nâng cấp. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ y, bác sĩ được nâng lên. Dịch vụ y tế tư nhân được quản lý chặt chẽ. Các chương trình y tế quốc gia như: phòng chống sốt xuất huyết, tiêm chủng mở rộng, kế hoạch hóa gia đình được thực hiện tốt. Về công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, đảng ủy, chính quyền xã đã quan tâm lãnh đạo và huy động cả hệ thống chính trị cùng thực hiện với đội ngũ cán bộ y tế. Nhờ đó, đến năm 2005, tỉ lệ phát triển dân số của xã giảm từ xuống còn 1,8%.
Việc thực hiện chính sách xã hội là công tác có tầm quan trọng đặc biệt. Bởi lẽ, sẽ là bất cập nếu phát triển kinh tế mà không đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội. Xuất phát từ quan điểm ấy, cấp ủy, chính quyền xã đã thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời chế độ chính sách cho các đối tượng. Về công tác đền ơn đáp nghĩa, nhân dân trong xã luôn đóng góp quỹ đền ơn đáp nghĩa vượt chỉ tiêu. Trong nhiệm kỳ, xã xây dựng 9 nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách và 6 nhà tình thương cho những hộ khó khăn.
Song song với công tác đền ơn đáp nghĩa, công tác giảm nghèo cũng được đảng bộ, chính quyền xã đặc biệt quan tâm. Xã đã tạo điều kiện cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất, chăn nuôi và tạo việc làm. Nhờ đó, cho đến năm 2005, xã không còn hộ đói, số hộ nghèo theo tiêu chí mới chỉ còn 117 hộ, chiếm 12, 4% tổng số hộ trong toàn xã.
+Tăng cường công tác quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Song song với việc xây dựng, phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội, đảng bộ, chính quyền xã Thái Bình Trung xem công tác củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội là nhiệm vụ then chốt, cần được quan tâm thực hiện thường xuyên. Bởi lẽ, có giữ vững được an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội thì các mặt kinh tế-văn hóa-xã hội mới có điều kiện phát triển.
Đảng ủy đã tổ chức quán triệt Nghị quyết 8/BTC (khóa VIII) về bảo vệ an ninh quốc gia và Nghị quyết TW 8 (khóa IX) về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết 09/CP về chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, Chỉ thị 12CT/TW của Bộ Chính trị về đảm bảo an ninh quốc phòng vùng Tây Nam Bộ trong toàn đảng bộ để góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu Diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch và phòng chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội. Xã đã xây dựng kế hoạch với những biện pháp tích cực và đồng bộ để ổn định an ninh chính trị, kềm chế các loại tội phạm, giảm thiếu tai nạn giao thông, giải quyết kịp thời những vụ gây rối trật tự công cộng. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc được đẩy mạnh để đề cao tinh thần cảnh giác của quần chúng trong việc tố giác các loại tội phạm và tham gia giữ gìn an ninh trật tự tại địa bàn cư trú. Những việc làm trên đã góp phần quan trọng vào việc giảm thiểu các tệ nạn xã hội, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Nhiệm vụ quân sự địa phương được đảng ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm thông qua việc tổ chức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng, củng cố ban chỉ huy xã đội, ấp đội. Công tác tuyển quân của xã hàng năm đều đạt yêu cầu về chất lượng và số lượng. Lực lượng dân quân tự vệ của xã đạt tỉ lệ 3% dân số, trong đó có 1 trung đội luân phiên thường trực, được huấn luyện hàng năm theo quy định.
*
* *
Nhìn chung, qua 10 năm xây dựng quê hương (1996-2005), xã Thái Bình Trung đã phát triển vượt bậc. Các mặt kinh tế-văn hóa-xã hội đều thay đổi sâu sắc. Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng hàng năm bình quân đạt 10%. Bộ mặt nông thôn đã thay đổi hoàn toàn. Hệ thống giao thông nông thôn được xây dựng hoàn chỉnh, nối liền các ấp trong xã. Hơn 60% số hộ xây dựng được nhà ngói và nhà kiên cố. Số hộ sử dụng điện trong sinh hoạt và sản xuất đạt 90%, số hộ sử dụng nước sạch đạt 50%, số hộ có phương tiện nghe nhìn là 100%, số hộ có phương tiên đi lại bằng cơ giới là 75%. Tính bình quân, cứ 100 người dân thì có 1 điện thoại cố định. Tỉ lệ nghèo (theo tiêu chuẩn mới) trong xã chỉ còn 14%, còn lại là hộ khá và giàu. Hoạt động văn hóa -văn nghệ, thể dục-thể thao được đẩy mạnh. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa có nhiều tiến bộ và đi vào thực chất. Nền văn hóa mới, con người mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được xây dựng và ngày khẳng định vị trí trong xã hội. Trình độ hưởng thụ văn hóa-văn nghệ của nhân dân ngày càng được nâng cao nhờ sự đa dạng của các phương tiện nghe nhìn. Các cơ sở y tế, giáo dục đều được xây dựng với chất lượng phục vụ tốt, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. An ninh chính trị luôn ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tạo sự bình yên trong đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch kinh tế của xã vẫn còn chậm, chưa thật bền vững, các giải pháp phục vụ sản xuất nông nghiệp chưa đồng bộ; một bộ phận nhân dân vẫn còn thiếu việc làm; đầu tư cho y tế-văn hóa-giáo dục còn thấp, phong trào xây dựng đời sống văn hóa đôi lúc còn mang tính hình thức; chất lượng của phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc chưa cao, tình hình trật tự an toàn xã hội có những diễn biến phức tạp; công tác lãnh đạo, điều hành của Đảng ủy, Ủy ban nhân dân, vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân đôi lúc còn bất cập so với sự phát triển của xã hội. Đó là những vấn đề cơ bản mà đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thái Bình Trung phải cùng chung sức giải quyết để đưa xã nhà tiến nhanh, tiến mạnh hơn nữa trên con đường quá độ đi lên Xã hội chủ nghĩa.
KẾT LUẬN
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Trong hơn 70 năm qua (1930-2005), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà cụ thể là cấp ủy địa phương, quân và dân Thái Bình Trung đã cùng cả nước tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, quét sạch thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ra khỏi bờ cõi, tiếp tục bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Thái Bình Trung đã không ngừng đấu tranh chống lại ách thống trị của thực dân-phong kiến. Trải qua các phong trào cách mạng như: Cao trào Dân Chủ 1936-1939, Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 và Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, nhân dân Thái Bình Trung đã không ngừng đấu tranh chống thực dân Pháp để góp phần giành lại nền độc lập dân tộc. Khi thực dân Pháp tái xâm lược, quân và dân Thái Bình Trung đã trường kỳ kháng chiến suốt 9 năm (1945-1954) để bảo vệ thành quả cách mạng. Sau Hiệp định Geneve, đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp tiếp tục xâm lược Việt Nam, âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Quân và dân Thái Bình Trung lại cùng cả nước tiếp tục cuộc kháng chiến suốt 21 năm (1954-1975) với quyết tâm chiến thắng giặc ngoại xâm, đánh đổ ngụy quyền tay sai. Trong suốt quá trình ấy, dù trải qua nhiều thăng trầm nhưng chưa lúc nào quân và dân Thái Bình Trung lùi bước trước kẻ thù. Là nơi có vị trí chiến lược quan trọng, giao điểm của các xã biên giới, cửa ngõ quan trọng về kinh tế và quân sự của huyện Vĩnh Hưng nói riêng và vùng Đồng Tháp Mười nói chung, trong đó có 12 năm là quận lỵ của quận Tuyên Bình, Thái Bình Trung luôn bị kẻ thù tập trung lực lượng đánh phá ác liệt. Để đánh bại kẻ thù với người đông, thế mạnh, vũ khí trang bị hiện đại, quân và dân Thái Bình Trung đã kiên cường, dũng cảm, phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vượt qua mất mát hy sinh, cán bộ, đảng viên xã Thái Bình Trung đã nối tiếp nhau giữ vững và giương cao ngọn cờ cách mạng. Nhân dân nơi đây luôn 1 lòng với Đảng, sẵn sàng chở che, đùm bọc, dưỡng nuôi các cán bộ, chiến sĩ cách mạng ở những thời điểm khó khăn ác liệt nhất. Nhờ có dân, biết phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân dân mà các cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cách mạng xã Thái Bình Trung đã vượt qua bao gian lao, thử thách, đưa phong trào cách mạng của xã nhà đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã mở ra một thời kỳ mới cho đất nước ta-đó là thời kỳ độc lập, hòa bình, thống nhất và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh chung ấy, Thái Bình Trung đã cùng cả nước nhanh chóng thực hiện công cuộc phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng lại quê hương từ trong đổ nát điêu tàn. Vượt qua muôn trùng khó khăn, phức tạp trong buổi đầu xây dựng trong đó có cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra ngay sau khi thống nhất đất nước, chi bộ, chính quyền và nhân dân Thái Bình Trung đã góp phần bảo vệ nguyên vẹn chủ quyền biên giới, nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống, khôi phục sản xuất, xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mười năm đầu sau giải phóng, dưới sự lãnh đạo của chi bộ, chính quyền xã, nhân dân Thái Bình Trung đã khai hoang, phục hóa, xây dựng các công trình thủy lơi, tiến hành thâm canh, tăng vụ để nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng. Nhờ đó, kinh tế nông nghiệp phục hồi và bước đầu phát triển, đời sống nhân dân dần dần được ổn định.
Trong 20 năm xây dựng quê hương dưới ánh sáng của sự nghiệp đổi mới do đảng ta khởi xướng và lãnh đạo (1986-2005), đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thái Bình Trung đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn, khai thác triệt để tiềm năng đất đai và lao động, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sự phát triển về kinh tế đã làm cho đời sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn chuyển biến rõ rệt, hộ đói không còn, hộ nghèo được hạn chế dưới 14%, còn lại là hộ khá và hộ giàu. Đời sống tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt thông qua việc hưởng thụ về thông tin, văn hóa-văn nghệ từ các phương tiện thông tin đại chúng. Phong trào văn nghệ-thể thao quần chúng có nhiều khởi sắc. Công tác đền ơn đáp nghĩa đối với các gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng cũng được thực hiện tốt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Những thành tựu nói trên là hết sức to lớn so với thực trạng của Thái Bình Trung sau ngày giải phóng. Tuy nhiên, chặng đường phía trước nhiều chông gai, thử thách, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của đảng bộ, chính quyền và nhân dân nơi đây. Với những thành tựu đã đạt được, chúng ta có đủ cơ sở vững chắc để khẳng định rằng Thái Bình Trung nhất định sẽ thành công trong việc vươn tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
PHẦN PHỤ LỤC
DANH SÁCH BI THƯ XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
STT
|
HỌ VÀ TÊN
|
THỜI GIAN
|
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
|
CHÂU TỬ TƯ
TRẦN NGỌC NĂNG
LÊ VĂN BÌNH
LÊ CÔNG BÌNH
PHAN VĂN GIẢNG
BA HỒNG
NGUYỄN VĂN ĐỔNG
ĐẶNG THÀNH CHUNG
TRẦN THỊ DIỆU
PHẠM VĂN THẮNG
NGÔ BÁ HẢI
|
1948-1954
1954-1956
1960-1965
1966-1967
1967-4/1968
5/1968-1970
1970-1972
4/1975-cuối 1975
cuối 1975-1986
1986-1990
1990-1998
1998-2005
|
DANH SÁCH CHỦ TỊCH UBND XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
STT
|
HỌ VÀ TÊN
|
THỜI GIAN
|
1
2
3
4
5
6
7
8
|
CHÂU TỬ TƯ
NGUYỄN VĂN TRỌNG
ĐẶNG THÀNH CHUNG
LÊ PHƯỚC HƯNG
PHẠM VĂN THẮNG
NGUYỄN ĐÌNH A
NGUYỄN VĂN MẾN
PHAM VĂN TOÀN
|
1946-1954
4/1975-cuối 1975
Cuối 1975-1985
1986-7/1988
8/1988-1990
1990-1997
1998-2003
2003-2009
|
[1] Làm cho rệu rã các ấp chiến lược, khu dinh điền trước khi nhân nhân nổi dậy phá vỡ.
[2] Quận lỵ quận Tuyên Bình của địch.